Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mã tấu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 37 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q230711 Addbot
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 4:
Mã tấu là cách gọi của một loại [[gươm]] truyền thống, nó có hình dạng là một thanh gươm dài có độ cong vừa phải, sắc một lưỡi, đa phần là cứng chứ không mềm như kiếm, phần chuôi cầm bằng gỗ để giảm trọng lượng (khác với kiếm và [[đao]] vì 2 loại này phần chuôi thường làm bằng kim loại).
 
Mã tấu là vũ khí tích hợp chuyên dụng cuả kị binh trong điều kiện chiến đấu trên lưng ngựa.Do mã tấu có sống đao khá dày và bén một lưỡi nên tăng độ cứng cho vũ khí và tăng lực chém khi kết hợp với đà phi của ngựa-Chữ ''"mã"'' là để chỉ ngựa (Kị Binh). Do sức sát thương cao, bền và dễ chế tạo nên Mã Tấu được trang bị rất phổ biến trong quân đội thời trung đại và một số đội quân hiện đại vẫn dùng để tăng khả năng chiến đấu cận chiến của bộ binh
 
Một số người thường gọi [[Gươm Nhật|gươm Nhật Bản]] là mã tấu, nhưng điều này chưa hẳn đúng bởi ví dụ ở [[Việt Nam]] vào [[nhà Trần|thời Trần]] có một loại đao to bản có sức sát thương lớn cũng được gọi là mã tấu. Ngày nay, ít người còn phân biệt rõ ràng giữa kiếm và mã tấu, nói chung để phân biệt chỉ có thể dựa vào hình dáng, kiếm thì thẳng còn mã tấu thì cong.
 
Kiếm nhật (Katana) là một thanh kiếm chứ không phải Mã tấu vì kiếm nhật lưỡi mỏng và rất dễ gãy nếu bị đánh ngang thân kiếm.Mã tấu tiêu chuẩn là phải dày,nặng,tạo lực chém cao nhất khi bổ-quét ngang và sống phải dày để chịu lực trong điều kiện chiến đấu khắc nghiệt (Mài mòn, cùn lưỡi). Kiếm nhật không đáp ứng được các yêu cầu này.
Dòng 19:
[[Đao]] có một bề bén và lưỡi cong gọi là [[yêu đao]] (腰 刀). Khi [[đao]] có lưỡi bản rộng thì được gọi là [[đại đao]] (大 刀). Hiện nay vẫn còn có [[người Việt]] nhầm lẫn gọi [[siêu đao]] (超 刀) là [[đại đao]] (大 刀) theo lối các trường phái [[võ thuật Trung Hoa]] thường gọi.
 
Mã tấu thuộc về loại [[trường đao]] (長 刀), có lưỡi bản rộng hơn và cân lượng nặng hơn [[đao]]; cán dài khoảng 40  cm tới 60  cm. Đó là loại binh khí phôi thai từ [[hổ đầu đao]] (虎 頭 刀).
 
Khi xưa người Trung Hoa dùng loại đao bản rộng này để đánh trên ngựa nên gọi là [[mã đao]] (馬 刀), người Việt Nam đọc chệch ra là mã tấu; về sau này, mã tấu được sử dụng đánh dưới đất và còn được gọi là [[trảm mã đao]] (斬 馬 刀). [[Hoàn đao]] (環 刀), [[bối đao]] (背 刀), [[quỷ đầu đao]] (鬼 頭 刀), v.v. của Trung Hoa thuộc về loại mã tấu.
 
[[Trảm mã đao]] thời kỳ nhà Tống năm 1072. Loại đao dài này dùng trong chiến trận cổ, để chặt chân ngựa, và thảo phạt tướng lĩnh mặc [[giáp trụ]] nặng. Chuôi đao dài 37cm37 cm, lưỡi đao dài 114cm114 cm. [[Trảm mã đao]] là loại đao dài nặng, là tiền đề cho [[miêu đao]] rất nổi tiếng của các môn phái võ thuật Bắc Trung Hoa sau này. Và cũng là tiền đề cho [[Gươm Nhật|đao Nhật Bản]] (Katana) về sau, thế kỷ 16 – 17.
 
Mã tấu được sử dụng bằng một tay hoặc bằng hai tay, trong khi đao chỉ được sử dụng bằng một tay.<ref>http://vothuat.co/cac-ten-goi-cua-dao.html</ref>