Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiểu thừa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 41:
 
Tiểu thừa tập trung tuyệt đối vào con đường đi đến giải thoát Niết Bàn. Tiểu thừa phân tích rõ trạng thái của đời sống con người, bản chất sự vật, cơ cấu của chấp ngã và chỉ ra phương pháp giải thoát khỏi sự [[Khổ (Phật giáo)|Khổ]] (sa. ''duḥkha''). Tất cả các trường phái Tiểu thừa đều có một quan điểm chung về sự vật đang hiện hữu: khổ có thật, phải giải thoát khỏi cái Khổ. Giải thoát khỏi [[luân hồi]] (sa., pi. ''saṃsāra''), thoát khỏi sự tái sinh và đạt [[Niết-bàn]] (sa. ''nirvāṇa'') là mục đích cao nhất của Tiểu thừa. Muốn đạt được mục đích này, hành giả phải dựa vào sức mình, độc cư thiền định (Tứ Thiền) và thiền tuệ (Tứ Niệm Xứ). Vì vậy Tiểu thừa quan niệm phải sống viễn li, sống cuộc đời của một bậc tu hành chân chính thanh cao, phạm hạnh đầy đủ, làm gương cho các tu sĩ đời sau. Đối với Tiểu thừa, cuộc sống tại gia không thể nào đưa đến sự giải thoát. Hình ảnh tiêu biểu của Tiểu thừa là [[A-la-hán]] (sa. ''arhat''), là người dựa vào tự lực tu tập để giải thoát, chứng Niết Bàn giống Phật Thích Ca. Họ khăng khăng "bảo thủ" nguyên xi lời Phật mà không ủng hộ "phát triển" thêm lời của Phật. Tức là họ không đồng tình với việc "sáng tạo" ra Kinh Đại Thừa rồi gán là lời của Phật nói. Quan điểm như vậy nên người ta cho rằng họ là tiểu thừa, chẳng biết tiếp thu học hỏi giáo lý khác.
Niết-bàn đối với Tiểu Thừa là sự đoạn tận tham sân si, thoát khỏi tái sanh luân hồi đau khổ. Mục đích cuối cùng, là kinh nghiệm của sự giác ngộ (phẩm vị A la hán), trong đó, hành giả chứng được vô ngã và từ bỏ tham ái, không còn tái sanh chịu khổ, từ bỏ mọi dính mắc hữu vi và vô vi (Niết Bàn). Đối với Tiểu thừa, Phật là một nhân vật lịch sử, được xem là một con người từ phàm nhân tu thành Phật thầy dạy, không phải là hoá thân của một thật thể nào, đối chọi với tư tưởng Tam Thân Phật. Giáo pháp cùng tột của Tiểu thừa gồm có [[Tứ diệu đế]], [[Duyên khởi]] (sa. ''pratītyasamutpāda''), thuyết [[Vô ngã]] (sa. ''anātman'') và luật nhân quả, [[Nghiệp (Phật giáo)|Nghiệp]] (sa. ''karma''), 37 phẩm trợ đạo, Ngũ Uẩn, 12 xứ, 18 giới v... Phép tu hành của Tiểu thừa dựa trên [[Bát chính đạo]], mở rộng ra là 37 phẩm trợ đạo được giảng dạy trong Kinh Nikaya, dùng để tu chứng nghiệm Tứ Diệu Đế. Theo quan điểm riêng của Đại thừa (Cỗ Xe Lớn), sở dĩ phái này được gọi là "tiểu thừa" (Cổ Xe Nhỏ) vì—ngược lại với chủ trương của Đại thừa là nhằm đưa tất cả loài [[hữu tình]] đến giác ngộ—pháingộ thành Phật giống Phật Thích Ca —phái Tiểu thừa chỉ quan tâm đến sự giác ngộ của cá nhân mình. Chủ trương này được xem tiểu thừa là giáo pháp sơ cấp của Phật vì sau đó Phật giảng giáo pháp toàn vẹn hơn, cao cấp hơn là giáo pháp Đại thừa. Tuy nhiên, quan điểm này cần phải xem xét lại thật cẩn thận vì nếu như tiểu thừa có ích kỷ chỉ lo giác ngộ cá nhân mình thì làm sao ngày nay Tam Tạm Kinh Điển Pali (Nikaya) còn tồn tại và lưu truyền cho đến ngày nay? CònKinh Tiểu thừa còn được dịch thuật sang Tiếng Anh, Tiếng Miến, Tiếng Việt, Tiếng Thái, Tiếng Camphuchia, Tiếng Tích Lan...? Nếu cho rằng tiểu thừa là giáo pháp sơ cấp là nên xem xét lại vì mục đích của Đạo Phật là Niết Bàn,. điềuĐiều này được minh chứng là Phật Thích Ca cũng đã đạt Niết Bàn và khám phá ra Tứ Diệu Đế dạy lại cho các đệ tử Thanh Văn. Lại nữa, nếu như lý luận tiểu thừa là sơ cấp mà người ấy không đạt sơ cấp thì làm sao đạt cao cấp? Cho nên có nhiều mâu thuẫn, không hợp lý thực tế nếu như còn chê bai Tiểu Thừa. Người tu sĩ cả Nam Tông và Bắc Tông nên khiêm tốn, lịch sự, văn minh khi có dịp đàm đạo với nhau, cùng nhau tiến bộ, nên ôn hòa đàm đạo xây dựng trên con đường cứu mình và cứu người. Không nên khinh rẻ xem thường nhau là phạm vào giới luật.
 
==Xem thêm==