Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vô ngã”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 59:
Do thấy rõ, biết rõ các pháp hữu vi (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) là Vô Ngã nên Chánh Trí sanh ra. Vì thấy các pháp hữu vi bằng Chánh Trí là vô thường nên sanh Tuệ Giác Thấy Nguy Hiểm. Thật là nguy hiểm khi bám níu, dính mắc vào pháp hữu vi vô thường, hành động đó là ngu si. Do Tuệ Giác Thấy Nguy Hiểm sanh lên nên Tuệ Giác Yểm Ly (tức là xa rời pháp hữu vi) sanh lên. Do Tuệ Giác Yểm Ly sanh lên nên Tuệ Giác Ly Tham sanh lên. Tuệ Giác Ly Tham sanh lên chính là thấy Niết Bàn. Giải Thoát vĩnh viễn pháp hữu vi, không còn phải tái sanh nữa, nghĩa là chặt đứt mắt xích Tham ái thuộc 12 nhân duyên (cần nên xem thêm về Pháp Duyên Khởi - Thập Nhị Nhân Duyên). Có một điểm phải đặc biệt lưu ý: Kinh nói dù hạ liệt (phàm phu) hoặc cao thượng (pháp sanh ra tính chất Thánh) phải thấy nó là Vô Ngã. Trong quá trình thiền quán, pháp thiện, pháp ác sẽ phát sinh hành giả cần phải quán sát (thấy rõ bằng Chánh Trí) nó đều là Vô Ngã hết. Chẳng có cái gì là của tôi, là tôi, tự ngã của tôi. Đặc biệt là trong pháp thiền quán, có nhiều pha, nhiều giai đoạn hành giả sanh ra Tưởng Uẩn rằng mình là Thánh, có thể dính mắc vào tham ái. Cho nên phải quán sát đủ cả 11 khía cạnh không bỏ sót. Phải chú ý: Thánh Tu Đà Hoàn vẫn còn trong trình độ chấp ngã (còn tham ái). Đó là vì sao, Phật dạy: Pháp Vô Vi (niết bàn) cũng là vô ngã.
 
Hai thái cực là tu hành khổ hạnh đày đọa thân xác hoặc hưởng thụ vật chất xa hoa mà không thiền quán để thấy rõ Sắc Uẩn, Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, Thức Uẩn bằng pháp thiền quán Tứ Niệm Xứ đều là xa rời pháp Trung Đạo. Tu hành cần phải theo Trung Đạo, tức là thực hành quán sát Ngũ Uẩn (tương đương thực hành Tứ Niệm Xứ). Mà pháp thiền quán ở đây là Chánh Niệm, tức là Tứ Niệm Xứ, Phật đã định nghĩa trong Kinh Tương Ưng, Phẩm Đạo, Phân tích đạo:
Một vài thông tin khác:
'''''Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời; Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh niệm.'''
Phần lớn họ cho rằng, sự tái sinh được quyết định bởi [[Nghiệp (Phật giáo)|Nghiệp]] mà chúng sinh đã tạo trong các kiếp trước. Từ đó họ kết luận rằng con người phải tu khổ hạnh tránh tạo nghiệp, khống chế nghiệp lực, hoặc nhận thức được là cốt lõi của chúng sinh, tức chân ngã hoàn toàn không liên quan đến các nghiệp và vì vậy trường tồn bất biến.
''
Chúng ta không thể thấy Vô Ngã chỉ bằng đọc tụng Kinh hoặc suy nghĩ về nó mà phải thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ để thấy và biết Vô Ngã. Ghi chú: thiền quán Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là đồng nghĩa với thiền quán Thân Thọ Tâm Pháp (Tứ Niệm Xứ).
 
Như vậy thì điểm tinh yếu trong giáo lí đức Phật là tất cả các pháp dù hữu vi hay vô vi đều vô ngã. Chấp nhận có "chân ngã" không đạt ích lợi trên con đường đạt giải thoát, là dính mắc vào tham ái (tự ngã), gây ra luân hồi đau khổ. Ngược lại, người ta nên bớt dính mắc những kiến giải về thế gian (tưởng giải của Tưởng Uẩn)đểmà thay vào đó thực hành thiền quán, để thấy sự thật VÔ NGÃ của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Người chưa thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ thì thấy Vô Ngã vẫn là một lý thuyết nhưng người đã qua trải nghiệm thực hành thiền quán có kết quả thì thấy Vô Ngã là một sự thật chắc chắn. Một sự thật phũ phàng nhưng là sự thật. Cũng như ngày xưa người ta quan niệm mặt trời đi quanh trái đất nhưng sự thật phô bày ngược lại: trái đất đi xung quanh mặt trời vì người ta đã đi ra khỏi trái đất và thấy như vậy. Cũng vậy, Vô Ngã chỉ thấy được khi thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ.
Quả như vậy, có nhiều người tu khổ hạnh tìm cách khống chế một phần nào đó, hoặc hoàn toàn tất cả những hoạt động thân tâm - trường hợp nổi danh nhất có lẽ là năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật. Điểm quan trọng ở đây là sự kiện những trào lưu thừa nhận sự nhận thức chân ngã như ''điều kiện tiên quyết'' để đạt giải thoát, bởi vì nó giúp chúng ta hiểu và xác định vị trí của bài kinh bên trên một cách chính xác hơn. Kiến giải chấp vào một ngã phần lớn được tìm thấy trong các [[Áo nghĩa thư]] (sa. ''upaniṣad'') cũng như các bài [[kinh Vệ-đà]] (sa. ''veda'').
 
Chúng ta chứng kiến rõ ràng là trước hết bài kinh chỉ trích một phương pháp tìm đạo giải thoát của ngoại đạo và sự thật là kiến giải chấp ngã thỉnh thoảng được gán vào các trào lưu ngoại đạo một cách minh xác lại càng chứng minh lập trường này hơn. Kinh thường kể về những nhà tu khổ hạnh, [[Bà-la-môn]] với kiến giải cho rằng, những điều dễ chịu trong thế gian là trường tồn, an lạc, là tự ngã siêu thoát mọi tật bệnh và hoàn toàn tịch tĩnh. Theo giáo lí của đức Phật thì các vị này phạm một lỗi nặng bởi vì qua kiến giải này, người ta chỉ làm tăng trưởng [[tham ái]] mà thôi. Mẩu chuyện thú vị bên dưới cũng được ghi lại (Dīghanikāya 9, 34f, bản dịch của H. von Glasenapp):
<div class="toccolours">
:Một vài người tu khổ hạnh và Bà-La-Môn cho rằng: "Tự ngã sau khi chết hoàn toàn an lạc, siêu thoát mọi khổ ải." Ta liền hỏi họ: "Các ông có khi nào thấy một thế giới hoàn toàn an lạc hoặc một tự ngã nào đó hoàn toàn an lạc dù chỉ một ngày hoặc một đêm?" Họ phủ nhận cả hai trường hợp. Như vậy nào có khác trường hợp anh chàng nọ quả quyết "Tôi yêu cô gái đẹp nhất nước" và nếu một người nào đó hỏi "Anh có quen thiếu nữ đẹp nhất nước, anh có biết cô ấy tên gì, thuộc giòng tộc nào, thấp bé, nước da trắng, đen và cư ngụ ở đâu?" Và anh ta phải trả lời tất cả những câu hỏi đó với 'không biết'. Vậy không phải những gì anh ta nói đều là những lời nói rỗng tuếch vô nghĩa hay sao?
</div>
Như vậy thì điểm tinh yếu trong giáo lí đức Phật là tất cả các pháp dù hữu vi hay vô vi đều vô ngã. Chấp nhận có "chân ngã" không đạt ích lợi trên con đường đạt giải thoát, là dính mắc vào tham ái, luân hồi đau khổ. Ngược lại, người ta nên bớt dính mắc những kiến giải về thế gian (tưởng giải của Tưởng Uẩn)để thực hành thiền quán, để thấy sự thật VÔ NGÃ. Người chưa thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ thì thấy Vô Ngã vẫn là một lý thuyết nhưng người đã qua trải nghiệm thực hành thiền quán có kết quả thì thấy Vô Ngã là một sự thật. Một sự thật phũ phàng nhưng là sự thật. Cũng như ngày xưa người ta quan niệm mặt trời đi quanh trái đất nhưng sự thật phô bày ngược lại: trái đất đi xung quanh mặt trời vì người ta đã đi ra khỏi trái đất và thấy như vậy. Cũng vậy, Vô Ngã chỉ thấy được khi thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ.
 
==Thuyết Vô ngã trong Thượng Toạ bộ==