}}
{{thiếu nguồn tham khảo}}
'''Hữu Liên''' là một xã thuộc huyện [[Hữu Lũng]], tỉnh [[Lạng Sơn]], [[Việt Nam]].
'''Hữu Liên''' là một xã thuộc huyện [[Hữu Lũng]], tỉnh [[Lạng Sơn]], [[Việt Nam]]. Xã nằm trong thung lũng bao quanh bởi các dãy núi đá vôi hiểm trở, cách Thị trấn Hữu Lũng 35 km về phía Tây Bắc. Ở Hữu Liên bao đời nay đã tồn tại như một cộng đồng độc lập với một lịch sử, những phong tục tập quán, một truyền thống văn hóa giàu bản sắc. Trên địa bàn xã còn có [[khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên]].
Các thôn làng của xã gồm:
1.[[Tân Lai]]
2.[[Ba Lẹng]]
3.Ao Bải
4.Là Ba
5.Liên Hợp(làng dọ)
6.LÀNG CƯỚM
7.Làng Bên-Khuân Thi
8.Làng Cóc
9.Làng Que
10.Lân Châu-Lân Dầm
11.Lân Đặt
12.Là noọc- cái cóc
==Địa Vănlý hóa- Hành chính==
Xã nằm trong thung lũng bao quanh bởi các dãy núi đá vôi hiểm trở, cách Thị trấn Hữu Lũng 35 km về phía Tây Bắc.
Người dân Hữu Liên vẫn giữ trong trí nhớ hình ảnh hệ thống đình chùa đã từng là di sản văn hóa, là nơi thờ phụng, tưởng niệm các vị anh hùng dân tộc, nơi sinh hoạt văn hóa, trao đổi tình cảm giao duyên bao đời nay. Cho đến những năm 1960 trong xã chỉ còn 6 đình chùa là di tích nổi tiếng khắp vùng:
Xã gồm các thôn làng: Tân Lai, Ba Lẹng, Ao Bải, Là Ba, Liên Hợp (làng Dọ), Làng Cướm, Làng Bên-Khuân Thi, Làng Cóc, Làng Que, Lân Châu-Lân Dầm, Lân Đặt, Là Noọc-Cái Cóc
1. Đền thờ Đức Thánh Cả (hèm là Quế Minh Đại Vương) ▼
==Dân cư==
2. Đền thờ Đức Thánh Hai (hèm là Non Nỉ Đại thán), còn gọi là đình trên ▼
Hữu Liên chủ yếu là dân tộc Kinh và Dao ▼
==Giáo dục - Y tế==
3. Đền thờ Đức Thánh Ba (hèm là Mỏ Hoan Đại thần) hay còn gọi là đình dưới ▼
== Di tích - Danh thắng ==
▲1.* Đền thờ Đức Thánh Cả (hèm là Quế Minh Đại Vương)vương
▲2.* Đền thờ Đức Thánh Hai (hèm là Non Nỉ Đại thán),thánh còn(Đình gọi là đình trênTrên)
▲3.* Đền thờ Đức Thánh Ba (hèm là Mỏ Hoan Đại thần ) hay(Đình còn gọi là đình dướiDưới)
* [[Khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên]]
==Chú thích==
{{reflist}}
==Liên kết ngoài==
{{sơ khai Hành chính Việt Nam}}
{{Danh sách xã, thị trấn thuộc huyện Hữu Lũng}}
[[Thể loại: Xã, thị trấn thuộc huyện Hữu Lũng]] ▼
▲ Hữu Liên chủ yếu là dân tộc Kinh và Dao
== Truyền thuyết vừa hư vừa thực gắn liền với các địa danh, địa vật ==
=== Truyền thuyết về Man, Hoa, Tý, Coóc Noọc ===
Hữu Liên là một vùng sơn lâm cùng cốc. Những dẫy núi đá vôi sừng sững với những đỉnh sắc nhọn thật là hùng vỹ. Rừng đại ngàn có cả trăm ngàn loại cây và muông thú, chứa đựng một sức sống thật mãnh liệt nhưng cũng thật hoang sơ. Vẻ uy linh của núi rừng đã hình thành trong tâm chí người dân những ý niệm về tâm linh. Quan niệm của người xưa cho rằng trong núi có 4 vị thần núi cai quản 4 khu vực của Hữu Liên, thần Man là anh cả, thần Hoa là anh hai, thần ty là anh 3, thần Coóc Noọc là anh 4. Đến nay, trong lời khẩn cầu đầu tiên của người dân đều có tên của 4 vị thần là Man, Hoa, Ty, coóc Noọc với mong muốn được các vị thần chứng giám và phù hộ theo lời cầu nguyện. Thường đó là những lời cầu khẩn để gió mưa, bệnh tật không làm hại mùa màng, Hổ, Báo không bắt mất gia xúc gia cầm, con cái bớt ốm đau bệnh hoạn.
=== Truyền thuyết đào Chá ===
Trên đường vào Hữu Liên mọi người phải qua một đèo có rất nhiều cây Chá, đến mùa quả Chá chín đỏ một vùng làm cho cảnh đèo trở nên thơ mộng, vì thế có tên đèo Chá. Mỗi khi qua đèo thanh niên nam nữ Hữu Liên lại nhớ đến những lời nguyền hận bạn của một người con gái thửa xưa.
::::::{{cquote|''Đèo này em rạch mép diết trăn!''
''Vài lời lưu lại khuyên răn mọi người''
''Trăm năm chồng vợ một đời!''
''Yên Thịnh xin chớ sống đời với nhau''
''Nếu qua chẳng dể, chẳng dâu!''
''Mà gây tai họa khổ đau cả đời''}}
Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa có đôi nam nữ Hữu Liên, Yên Thịnh (xã ngoài) yêu nhau tha thiết. Vì quá yêu nên đưa vào nhau đến đèo Chá thì trời tối, hai người nghỉ lại ở giữa đèo. Nửa đêm trong giấc đắm say thì có một con trăn đi kiếm ăn đêm, gặp họ nó nuốt một chân người con gái. Khi giật mình tỉnh dậy thì trăn nuốt đến ngang đùi, cô gái kêu lên và chàng trai bàng hoàng tỉnh giấc, hoảng sợ trước con trăn to đã bỏ cô gái để chạy thoát thân. Cô gái gọi rất thanh nhưng chàng trai vẫn không quay lại. Cô nhớ ra mình có con dao cắt trầu, liền cầm dao mở lưỡi đưa vào mồn con trăn rạch mãi cho đến khỏi bàn chân, con trăn đã chết vì bị rạch quá to. Vì tức dân người con trai bội bạc mình, với tình yêu khi gặp nạn, cô liền về nhà vác cái chum đựng nước đến đèo Chá đập vỡ tan nát và nói thề rằng, từ nay trở đi nếu trai gái Hữu Liên, Yên Thịnh không được yêu nhau, không được lấy nhau. Nếu lấy thì sẽ không con, không của mà cuộc sống tan nát như chiếc chum này. Từ đó về sau trai gái hai xã rất ít lấy nhau. Một vài người đã chống lại lời nguyền này vì họ tin vào tình yêu của họ. Tuy vậy để đề phòng tác dụng của lời nguyền các đám rước dâu không đi qua đèo Chá mà phải đi vòng qua lối khác ở Lân Ty.
=== Truyền thuyết về bánh Tông Tênh ===
Chuyện kể rằng trước đây phần lớn ruộng của Hữu Liên là ruộng một vụ, việc cầy cấy trông vào nước trời. Năm ấy có hai vợ chồng gia đình nông dân nghèo nhưng cần mẫn luôn làm việc thiện. Ông bà quyết định đào con mương dài khoảng 1400 – 1600m lách qua các quả đồi để dẫn nước về đồng. Hai ông bà nghèo quá, không có đủ lương thực để ăn, phải mỗi ngày 20 hạt tông tênh làm bằng bột ngô, sắn luộc chín, không có thời gian để kiếm rau rừng, họ phải lấy rêu để quấn vào hòn bột để ăn cho rễ. Đào xong con mương, vì ông bà quá kiệt sức và đã qua đời. Dân làng lập miếu ở nơi bằng phẳng trung tâm đoạn mương để thờ và tưởng nhớ công đức hai ông bà đào mương. Dòng mương được khơi rộng dần và có tên là suối ông bà Mương chẳng biết ông bà Mương chết ngày nào, nhưng hàng năm cứ vào 8/2 dân làng mở hội cúng họ. Trong lễ cúng có nhiều món khác nhau, nhưng không bao giờ thiếu món bánh tông tênh.
=== Điểm tích tên các làng ===
Như bao nơi khác mỗi làng, mỗi xóm, mỗi cánh rừng, mỗi gò núi ở Hữu Liên thường có một tên gắn liền với một điểm tích riêng. Trong đó có những điểm tích rễ nhớ rễ thân.
* Đồi đền Vua, ngày xưa có đền Đức Thánh Hai là Non Nỉ Đại Thần được xây dựng ở đồi này. Một thời gian dân làng mới chuyển xuống Nà Huy nên đồi cũ có tên là đồi Đền Vua
* Đồi gò Táng, lúc đầu dân làng xây dựng đền Đức Thánh Ba. Nhưng vì nhà ai đã táng mộ đó nên đền không yên, người ta phải rời đền đến nơi khác. Từ đó gọi tên là gò Táng
* Hay là gò vườn trúc, vì lẽ gò này có nhiều trúc
* Có tên gọi là gò Mon, vì lẽ dân trồng khoai Hương, khoai Mon nên đã lấy tên củ khoai đặt tên cho đồi, nên rất lâu nay cứ gọi là đồi gò Mon
* Có tên là đồi Tròn Cáu, trong đồi thì có rất nhiều gò nhỏ bám theo lên nên gọi là tròn, còn Cáu là do có nhiều cây vỏ Cáu, mà các chị các bà phụ nữ ăn trầu cứ tới đây lấy vỏ Cáu về ăn trầu cho đỏ môi, ngọt miệng. Có người khách hỏi vỏ này lấy hay mua đâu mà đỏ vậy, bà chủ nào đó trả lời lấy vỏ ở gò Tòn Cáu, vì thế cứ gọi là Tròn Cáu đến bây giờ.
* Lân năm làng. Khi giặc đến dân năm làng nhỏ họ đưa nhau vào lân này trú ngụ. Khi giặc đi họ lại kéo nhau về làm ăn. Vì vậy, lân đó gọi là lân năm làng.
[[Thể loại:Xã, phường, thị trấn Lạng Sơn]]
|