Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Guatemala”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 67:
Từ [[thế kỷ thứ 3 TCN]] tới [[thế kỷ thứ 12]] [[công Nguyên|sau Công Nguyên]], các vùng đất thấp khu vực [[el Petén|Petén]] và [[Izabal]] là nơi sinh sống của nhiều bộ lạc thổ dân thuộc bộ tộc [[người Maya|Maya]]. Trong khi đó bộ tộc [[Quiché|K'iche]] ngụ canh ở vùng cao nguyên miền trung Guatemala.
 
Khi được tin người [[Tây Ban Nha]] đã chinh phục được đế quốc [[Aztec]] ở Mexico thì bộ tộc K'iche ở Guatemala gửi sứ thần ra bắc bái yết [[Hernán Cortés]] và xin [[triều cống]], nhận làm thuộc quốc. Bấy giờ là năm 1521. Hai năm sau Cortés phái [[Pedro de Alvarado]] vào Guatemala giám sát tình hình, dẫn theo 173 kỵ binh, 300 lính Tây Ban Nha cùng 200 quân Mexico thuộc bộ tộc Tlaxcala. Người K'iche thấy Tây Ban Nha động binh bèn chống cự lại nhưng thua to ở trận Quetzaltenango. Kinh thành Utatlán của K'iche bị đốt rụi. Chính quyền Tây Ban Nha từ đó trực tiếp cai trị xứ Guatemala, lấy Iximché làm thủ phủ. Năm 1527 vì tình hình bất an Alvarado bỏ Iximché, dời đô về [[Antigua Guatemala|Santiago de los Caballeros]] để dễ bề phòng thủ hơn. Dù vậy các bộ tộc miền núi như nhóm Achi' vẫn không quy phục nên vùng [[Alta Verapaz]] vẫn độc lập nhưng ngược lại nhờ hoạt động truyền giáo của [[Giáo hội Công giáo Rôma|Giáo hội Công giáo La Mã]], ảnh hưởng của Tây Ban Nha dần dần lan rộng. Đến năm 1540 thì dân miền núi cũng công nhận chính quyền thuộc địa. Một số [[nhà truyền giáo]], nổi tiếng nhất là tu sĩ [[Bartolomé de las Casas]], đã bảo vệ người bản xứ khi quân đội Tây Ban Nha đàn áp thổ dân. Tuy nhiên Giáo hội thì thi hành chính sách hủy diệt các thư tịch cổ, và hầu như tất cả các sách vở Maya trước thế kỷ 16 nay đã thất truyền. Một số ít còn sót lại gồm có: ''[[Popol Vuh]]'', ''Anales de los Kakchiqueles'', và ''Chilam Balam''. Những văn bản này may mắn là được các nhà truyền giáo Tây Ban Nha sau khi phát hiện đã cất giữ nên còn đến nay.
 
Cuộc xâm chiếm của người Tây Ban Nha cũng để lại hai hậu quả lớn. Thứ nhất là bệnh truyền nhiễm như bệnh [[dịch hạch]], [[đậu mùa]], [[thương hàn]], [[sởi]], đã theo chân người Âu Châu tàn phá nhiều nhóm thổ dân vì người bản xứ không có quá khứ [[miễn dịch]] để chống các căn bệnh này. Dân số bản xứ vì đó bị giảm thiểu trầm trọng. Có nguồn nhận xét rằng 3/4 thổ dân đã tử vong vì nhiễm bệnh.
 
Hậu quả thứ hai là địa danh "Goathemala" đã khai sinh sau cuộc xâm lăng của người Tây Ban Nha. Danh hiệu này có nguồn gốc từ tiếng thổ dân có nghĩa là "Xứ rậm cây" nhưng đến thế kỷ 16 mới có mặt trong văn bản.
Dòng 77:
Khi tình hình quân sự đã ổn định hơn thì triều đình Tây Ban Nha cho chỉnh đốn lại việc cai trị, thành lập đơn vị Trấn Guatemala (''Capitanía General de Goathemala'' hay còn gọi là ''Audiencia de Guatemala'') trông coi một dải đất rộng lớn từ phía nam [[Tân Tây Ban Nha]] (Nueva España, tức [[México]]) đến tận [[Panama]]. Đơn vị Guatemala này bao gồm cả [[Chiapas]] (nay thuộc México), [[El Salvador]], [[Honduras]], [[Nicaragua]], và [[Costa Rica]]. Thủ phủ Santiago de los Caballeros không lâu biến thành đô thị lớn thứ ba ở châu Mỹ La Tinh, chỉ sau [[Thành phố México]] và [[Lima]]. Vùng đất này không giàu khoáng sản (vàng và bạc) như México và [[Peru|Perú]] nhưng cung cấp một số nông và lâm sản giá trị như [[mía]], [[cocoa]], [[Thuốc nhuộm màu chàm|phẩm chàm]] (añil), phẩm đỏ [[rệp son]] cùng các loại gỗ quý dùng trong việc xây cất và trang trí các công trình bên mẫu quốc.
 
Năm 1776 một chuỗi [[động đất]] lớn gây thiệt hại đáng kể, tàn phá thủ phủ Santiago de los Caballeros khiến chính quyền địa phương phải bỏ địa điểm cũ và dời đến thung lũng Ermita về phía đông-bắc, lập nên [[Thành phố Guatemala]], tức thủ đô của Guatemala ngày nay. Cố đô Santiago sau đó gọi là [[Antigua Guatemala]] tức cựu kinh.
 
Ngày [[15 tháng 9]], [[1821]], Guatemala trở thành một quốc gia độc lập. Nước Cộng hòa Guatemala mới gồm phần vùng Soconusco, và nơi hiện là các quốc gia [[El Salvador]], [[Honduras]], [[Nicaragua]], và [[Costa Rica]]. 1.5 triệu dân nước này tập trung tại các trung tâm đô thị.
Dòng 93:
Tháng 10 năm 1944, nhà độc tài [[Jorge Ubico]] bị cuộc cách mạng do sinh viên lãnh đạo lật đổ. Sự kiện này dẫn tới cuộc bầu cử đưa [[Juan Jose Arevalo|Jose Arévalo]], tổng thống bầu cử dân chủ đầu tiên của Guatemala cầm quyền đủ nhiệm kỳ, lên nắm quyền. Các chính sách "Xã hội Thiên chúa giáo" của ông, có cảm hứng từ chính sách [[Chính sách kinh tế mới (Hoa Kỳ)|New Deal]] của Hoa Kỳ, bị các chủ đất và tầng lớp giàu có chỉ trích là mang hơi hướng cộng sản.
 
Giai đoạn này cũng là thời điểm khởi đầu cuộc [[Chiến tranh Lạnh|Chiến tranh lạnh]] giữa [[Hoa Kỳ]] và [[Liên Xô]] ghi dấu ấn trong lịch sử Guatemala. Năm [[1954]], người kế nhiệm sau cuộc bầu cử tự do của Arévalo là [[Jacobo Arbenz Guzmán|Jacobo Arbenz]] bị một nhóm người Guatemala được [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|Cục tình báo trung ương Mỹ]] (CIA) hậu thuẫn lật đổ, sau khi chính phủ sung công những vùng đất bỏ hoang thuộc sở hữu của [[Liên minh Công ty Hoa quả]], một công ty buôn chuối có trụ sở tại Mỹ. Mật hiệu của CIA cho vụ đảo chính này là [[Chiến dịch PBSUCCESS]], lần thành công thứ hai trong việc lật đổ một chính phủ nước ngoài của CIA. Thời gian cầm quyền quân sự sau đó, bắt đầu bằng nhà độc tài [[Carlos Castillo Armas]], dẫn tới hơn 30 nội chiến, từ [[1960]], gây ra cái chết của ước tính 200.000 thường dân Guatemala. Vì chính quyền quân sự sử dụng các biện pháp tra tấn, bắt cóc, chiến tranh "[[tiêu thổ]]" không hạn chế và các biện pháp tàn bạo khác, đất nước đã trở thành một xã hội [[cùng khổ]].
 
Từ thập kỷ 1950 tới thập kỷ 1990 (chỉ có một giai đoạn ngừng viện trợ quân sự trong giai đoạn giữa 1977 và 1982), chính phủ Hoa Kỳ trực tiếp hỗ trợ quân đội Guatemala trong huấn luyện và vũ khí cũng như cung cấp tiền bạc. [[Các lực lượng quân sự đặc biệt Hoa Kỳ]] (Mũ nồi Xanh) được gửi tới Guatemala để biến quân đội nước này trở thành một "lực lượng chống nổi lạon hiện đại" và biến nó trở thành đội quân mạnh nhất, tinh vi nhất vùng Trung Mỹ. Sự dính líu của CIA gồm cả việc huấn luyện 5.000 lính người [[Cuba]] chống đối [[Fidel Castro]] và dùng máy bay vận chuyển lực lượng này vào trong lãnh thổ Cuba trong sự kiện sau này được gọi là [[Sự kiện Vịnh con Lợn]] năm 1961. Năm 1999, tổng thống khi ấy của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ [[Bill Clinton]] nói rằng Hoa Kỳ đã sai lầm khi cung cấp viện trợ cho các lực lượng quân đội Guatemala, lực lượng đã thực hiện những hành động giết dân thường tàn bạo [http://www.washingtonpost.com/wp-srv/inatl/daily/march99/clinton11.htm].
 
<!--Someone with historical knowledge of these events please tie this datum into the thread of the article: i.e., the war was 36 years long (see below), so who was fighting against the government pre-1982? What was the goal of URNG, and what actions did it take that contributed to the war that is being described above and below? -->Năm 1982, bốn nhóm [[Chủ nghĩa Marx|Mác xít]] thành lập tổ chức du kích [[Tổ chức Cách mạng Thống nhất Quốc gia Guatemala]] (URNG).
 
Năm [[1992]], [[Giải Nobel Hòa bình]] được trao cho [[Rigoberta Menchú]], một nhà hoạt động nhân quyền người bản xứ, vì những nỗ lực lôi kéo sự chú ý quốc tế tới cuộc [[diệt chủng]] được chính phủ hậu thuẫn chống lại những người bản xứ.
Dòng 169:
 
Việc ký kết hiệp ước hòa bình đã chấm dứt cuộc [[Nội chiến Guatemala|nội chiến]] kéo dài hàng thập kỷ, dỡ bỏ chướng ngại cho đầu tư nước ngoài.
Năm [[1998]], [[Bão Mitch]] gây ra thiệt hại cho Guatemala ở mức thấp so với các quốc gia láng giềng, đặc biệt là [[Honduras]].
 
Những thách thức còn lại gồm tăng cường nguồn thu của chính phủ, đảm phán để có được viện trợ cao hơn nữa từ quốc tế, và tăng năng lực cũng như tính mở của chính phủ và các cơ sở tài chính tư nhân.
Dòng 178:
{{bài chính|Nhân khẩu Guatemala}}
 
Theo [[World Fact Book]] của CIA, người [[Mestizo]], hay như được gọi là [[người Ladino|Ladino]] tại Trung Mỹ, (lai [[Người bản xứ Châu Mỹ|người da đỏ Châu Mỹ]]-Tây Ban Nha, hay người thuần chủng da đỏ Châu Mỹ nhưng nói tiếng Tây Ban Nha) và những người có tổ tiên Âu (chủ yếu là [[người Tây Ban Nha]], nhưng gồm cả [[người Đức]], [[người Anh]], [[người Ý|người Italia]], và [[người vùng Scandinavia]]) chiếm 60% dân số trong khi người da đỏ Châu Mỹ chiếm xấp xỉ 40% ([[Quiché|K'iche]] 9.1%, [[Cakchiquel|Kaqchikel]] 8.4%, [[Mam]] 7.9%, [[Q'eqchi]] 6.3%, các nhóm khác Maya 8.6%, bản xứ không phải Maya 0.2%, khác 0.1%). Các nhóm dân tộc khác gồm [[Garifuna]] là hậu duệ của các nô lệ Châu Phi sống chủ yếu tại Livingston và [[Puerto Barrios]], và những tộc người da đen và [[mulatto]]s khác chiếm 1-2% dân số; người Ả rập gốc [[Liban]] và [[Syria]], và người Châu Á, chủ yếu là hậu duệ [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|người Hán]], chiếm khoảng 2% dân số. Cũng có một cộng đồng [[Triều Tiên]] tại Guatemala City và tại [[Mixco]] gần đó, hiện khoảng 50.000 người nhưng con số đang tiếp tục tăng lên.
 
Dù đa số dân cư Guatemala sống ở các vùng thôn quê, quá trình [[đô thị hóa|đô thị hoá]] đang tăng tốc. [[Guatemala City]] (gần 3 dân) đang mở rộng với tốc độ nhanh, và [[Quetzaltenango]], thành phố lớn thứ hai (xấp xỉ 300 ngàn dân), cũng đang mở rộng. Di cư từ nông thôn ra thành thị được thúc đẩy bởi sự sao lãng của chính phủ với vùng nông thôn, cộng thêm giá cả hàng nông sản thấp, các điều kiện lao động nặng nhọc, sự tập trung đất trồng trọt vào tay một số gia đình giàu có, và nhận thức (thường là sai lệch) về đồng lương cao sẽ có được trong các thành phố. Nói chung các nông dân nghèo thường tới những khu vực ngoại ô thành phố, sống một cuộc sống bấp bênh trên các sườn núi.
Dòng 241:
[[Thể loại:Guatemala| ]]
[[Thể loại:Trang đựng IPA]]
[[Thể loại:Cộng hòa]]
 
{{Liên kết chọn lọc|bs}}
[[Thể loại:Cộng hòa]]