Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Traianus”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n đã thêm Thể loại:Chấp chính quan của Đế quốc La Mã dùng HotCat |
n clean up, replaced: → (80), , → , (2), : → : (17), ; → ; using AWB |
||
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| title
| name
| full name
| kiểu tên đầy đủ = Tên thật
| image
| caption
| chức vị
| reign
| kiểu tại vị
| predecessor
| successor
| kiểu hôn phối = Hoàng hậu
| spouse
| thông tin hôn phối = ẩn
| spouse 2
| thông tin con cái = ẩn
| kiểu con cái
| issue
| house
| father
| mother
| date of birth
| place of birth
| date of death
| place of death
| place of burial = [[Roma|La Mã]], [[Đế quốc La Mã]] (tro được chôn dưới chân Trụ đài Traianus, nay bị thất lạc)
|}}
Dòng 32:
Trên cương vị người quản lý dân sự, Hoàng đế Traianus được ghi nhớ bởi những chương trình xây dựng quy mô, làm biến đổi hẳn kinh thành [[Roma|La Mã]] và để lại những công trình lưu truyền hậu thế như Cột trụ Traianus, Chợ Traianus và Quảng trường Traianus. Tuy nhiên, ông là một vị Hoàng đế có một bành trướng đất nước<ref name="DavidCosonBiaTruoc">David Corson, ''Trajan and Plotina'', Bìa trước</ref> và gặt hái được những chiến thắng rực rỡ nhất. Vào năm [[101]], ông thân chinh điều động binh mã phạt Vương quốc [[Dacia]] để chống nhau với vua [[Decebalus]], đánh tan nát quân Dacia trong trận đánh khốc liệt taị [[Trận Tapae lần thứ hai|Tapae]] lần thứ hai vào năm [[102]], và hoàn toàn chinh phục nước Dacia vào năm [[106]]. Vào năm [[107]], Traianus thân hành kéo đại binh tiến xa hơn về phía Đông và đánh chiếm nước [[Nabatea]], thành lập tỉnh [[Arabia Petraea]] dù rằng nó chẳng tồn tại được bao lâu. Sau đó ông trị quốc tương đối thái bình thịnh trị, và rồi ông lại rời khỏi kinh đô La Mã mà khởi binh lần cuối cùng vào năm [[113]] để chinh phạt Đế quốc [[Người Parthia|Parthia]], tiến tới tận thành phố [[Susa]] vào năm [[116]], bành trướng Đế quốc La Mã tới cực điểm. Ông là vị Hoàng đế La Mã duy nhất sánh ngang với [[Alexandros Đại đế|Alexandros Đại Đế]] trong việc hành binh tới [[vịnh Ba Tư]].<ref name="Crompton106"/> Trong chiến dịch này, ông lâm bệnh, rồi tới cuối năm [[117]], trên chuyến hải hành trở về La Mã, bệnh của ông phát nặng và Hoàng đế Traianus mất ngày [[9 tháng 8]] tại thành phố [[Selinus]]. Ông được Viện Nguyên lão La Mã tôn xưng là một vị thần, tro cốt được chôn cất tại [[Lăng Augustus]]. Ông được kế vị bởi người cháu họ là Hoàng đế [[Hadrianus]] - người có tư tưởng đối lập với chính sách bành trướng liên miên của ông.<ref name="WIllDurant413"/>
Những vùng đất ngày nay là [[Iraq]], [[Iran]], [[Ả Rập]] và cả miền Nam nước [[Nga]] đều đã nằm dưới vó ngựa của vị Hoàng đế kiệt xuất Traianus và những chiến binh tinh nhuệ của ông.<ref name="DavidCosonBiaTruoc"/> Với tư cách là một bậc đại anh quân vô cùng mạnh mẽ,<ref name="Crompton106"/> tên tuổi của ông được lưu truyền trong lịch sử, mỗi hoàng đế sau ông được tôn xưng bởi Nghị viện bằng câu ''felicior Augusto, melior Traiano'', nghĩa là "mong Hoàng thượng được may mắn hơn Augustus và tài giỏi hơn Traianus". Khác với nhiều vua chúa vốn được ca ngợi trong lịch sử nhân loại, tên tuổi và uy tín của ông không hề bị suy giảm trong suốt hơn 19 thế kỷ. Trong số những nhà thần học Thiên chúa giáo thời [[Trung Cổ]], ông được coi là một người [[Thuyết đa thần|Đa thần giáo]]
== Thời tuổi trẻ và lên tới đỉnh cao quyền lực ==
Dòng 38:
Marcus Ulpius Nerva Traianus là con trai của Marcia và [[Marcus Ulpius Traianus]], một Nghị viên có thế lực trong Viện nguyên lão La Mã và là một vị tướng xuất thân từ dòng họ [[Ulpius]]. Gia đình ông chuyển đến sinh sống tại [[Hispania]] (bán đảo [[Bán đảo Iberia|Iberia]], bao gồm lãnh thổ [[Tây Ban Nha]] và [[Bồ Đào Nha]] bây giờ), tại tỉnh [[Hispania Baetica]] ở phần đất nay là tỉnh [[Andalusia]] (nay thuộc Tây Ban Nha), một tỉnh đã hoàn toàn La Mã hóa và được gọi là nam Hispania. Traianus cũng chỉ là một trong số rất nhiều người nổi tiếng thuộc dòng họ Ulpius, dòng họ này tồn tại rất lâu ngay cả sau khi ông đã qua đời. Chị cả của ông là [[Ulpia Marciana]] và cháu gái là [[Salonina Matidia]].
Ông sinh ngày [[18 tháng 9]] năm [[53]], tại thành phố [[Italica]]. Khi còn trẻ, ông thăng tiến bằng con đường binh nghiệp, phụ vụ tại những vùng đất bất ổn nhất tại các miền biên viễn của đế quốc. Trong thời kỳ 76–77, cha của ông làm quan [[Tổng trấn]] [[Syria]] (''[[Legatus]] pro praetore Syriae''), bản thân ông nắm chức vụ ''[[Hành chính quan]] chiến đoàn - Tribunus legionis''. Vào năm [[76]], chính tại quê hương của ông, người cháu ông là [[Hadrianus|Publius Aelius Hadrianus]] chào đời. Khi phụ thân của Hadrianus mất vào
== Hoàng đế La Mã ==
Vị tân Hoàng đế được toàn dân thành La Mã chào đón với niềm ái mộ nhiệt liệt, và ông cũng không phụ lòng dân qua việc trị vì xuất sắc và không tàn bạo như bạo chúa Domitianus trước đây. Ông giải phóng nhiều tù nhân phải chịu kiếp tù đày vô lý vô cớ dưới triều Domitianus và ban phát lại của cải cho những thần dân đã bị bạo chúa Domitianus tịch thu tài sản - thực ra tiên đế Nerva đã có ý định trả lại cho nhân dân những của cải này nhưng qua đời trước khi thực hiện được. Nhân dân yêu mến Hoàng đế Traianus đến mức [[Viện Nguyên lão La Mã]] phải [[vinh danh]] ông là ''optimus'', nghĩ là "xuất sắc hơn cả".<ref>Bernard W. Henderson, "Five Roman Emperors" (1927).</ref><ref>F. A. Lepper, "Trajan's Parthian War" (1948).</ref> Trước thời ông, ''Optimus'' chỉ là cái tên mà nhân dân La Mã đặt cho thần [[Jupiter]] để tôn vinh công đức của thần, mà giờ đây Traianus với Đế hiệu này đã được sánh vai với Jupiter.<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
Vị đại anh quân này cũng là người [[đồng tính luyến ái]]. Tuy người ta thường coi đây chẳng qua là tin đồn nhảm mà thôi, bằng chứng về chuyện này có đầy, như nhà sử học Julian Bennett có đề cập.<ref name="ReferenceB">Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
{{Cquote|''Tôi biết rõ là Ngài rất ham trai và [[rượu]], nhưng nếu Ngài gây chuyện gì xấu hoặc giở trò đồi bại vì thói quen ấy, Ngài sẽ bị phê phán gắt gao, song, Ngài uống nhiều rượu như Ngài muốn nhưng Ngài vẫn không bị say, và trong quan hệ với các chàng trai Ngài không làm tổn hại ai cả.''|||Cassius Dio}}
=== Chinh phạt Dacia ===
Dòng 49:
{{Cquote|''...khi Ngài hăng say chinh chiến, thực ra Ngài sẽ thỏa mãn khi tên địch dữ tợn này bị tiêu diệt và dân nước địch bị đày ải.''|||Cassius Dio<ref name="CassiusDio373"/>}}
Không lâu sau khi lên ngôi Hoàng đế, Marcus Ulpius Nerva Traianus đã bắt đầu tiến lên trên con đường vinh quang quân sự.<ref name="WildfeuerGiớithiệu"/> được biết đến như là một trong những vị thống soái lừng danh nhất trong lịch sử [[thế giới]], đặc biệt là do cuộc chinh phục hiển hách của ông ở vùng Cận Đông, nhưng ban đầu là
Trong chiến dịch phạt Dacia lần đầu tiên vào khoảng từ [[tháng ba|tháng 3]] đến [[tháng năm|tháng 5]] năm 101, Hoàng đế Traianus thân chinh điều động binh mã<ref name="Romanis REquote05">{{chú thích web|url=http://www.roman-emperors.org/assobd.htm#t-inx|title=De Imperatoribus Romanis|work=An Online Encyclopedia of Roman Emperors|accessdate=2007-11-08|quote=Because the Dacians represented an obstacle against Roman expansion in the east, in the year 101 the emperor Trajan decided to begin a new campaign against them. The first war began on 25 March 101 and the Roman troops, consisting of four principal legions (X Gemina
Vua Decebalus là một kẻ thù đáng gờm của Traianus, do ông ta vẫn còn cố chấp sau khi thua trận.<ref name="EdwardGibbon6"/> Trong suốt Mùa Đông năm tới, vua Decebalus thân chinh xua binh tướng tiến đánh quân La Mã trên toàn vùng hạ lưu sông Danube, nhưng bị Quân đội của Traianus đánh đại bại. Trên đà chiến thắng, Hoàng đế Traianus thân hành cầm binh đánh sâu vào Vương quốc của người Dacia và buộc vua Decebalus phải thần phục ông một năm sau đó.
Hoàng đế Traianus ca khúc khải hoàn kéo đại quân trở về kinh thành La Mã trong vinh quang và đã được vinh danh bằng danh hiệu ''Dacicus Maximus''. Chiến thắng được ca ngợi trên [[Traiani Tropaeum]]. Tuy nhiên, đây là một nền hòa bình không được ổn định:<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
name="Romanis REquote04">{{chú thích web|title=Battle of Sarmizegetusa (Sarmizegetuza), A.D. 105|url=http://www.roman-emperors.org/assobd.htm#t-inx|title=De Imperatoribus Romanis|work=An Online Encyclopedia of Roman Emperors|accessdate=2007-11-08|quote=However, during the years 103–105, Decebalus did not respect the peace conditions imposed by Trajan and the emperor then decided to destroy completely the Dacian kingdom and to conquer Sarmizegetuza.he died}}</ref>
Vị Hoàng đế truyền lệnh cho [[Apollodorus người xứ Damascus]] thiết kế và gầy dựng nên một cây cầu lớn bắc qua sông Danube, sau đó ông lại thân chinh đốc suất binh mã phạt quân Dacia và chiếm lĩnh được một phần của Vương quốc Dacia vào năm [[106]]. Sau một cuộc chiến đấu ác liệt (xem thêm [[Chiến tranh Dacia lần thứ hai]]), đại binh của ông phá nát bấy nát bét kinh đô [[Sarmizegetusa Regia]] của người Dacia. Decebalus bỏ chạy, nhưng để không rơi vào tay của lực lượng [[Kỵ binh]] La Mã, ông ta đã [[tự sát]], tướng sĩ La Mã liền chặt đầu của ông ta dâng thủ cấp lên cho Hoàng đế Traianus bấy giờ đang ngự tại "Ranisstorum" - một địa điểm không thể xác định được ở nước Dacia thời đó. Đầu của Decebalus bị người La Mã bêu ở kinh thành La Mã, trên các bậc thang dẫn đến đồi Capitol. Đám hộ vệ của Decebalus (trong số đó có hai bé trai) cũng bị quân sĩ của Traianus tóm gọn.<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
=== Bành trướng về phương Đông ===
Cùng thời gian, vị vua cuối cùng được người La Mã bảo trợ là [[Rabbel II Soter]] của [[Nabatea]], qua đời. Sự kiện này có lẽ đã thúc đẩy Hoàng đế Traianus tiến hành sát nhập Nabatea, mặc dù lý do cụ thể của việc sát nhập này không được biết rõ, cũng như phương thức tiến hành sát nhập. Một số hình khắc cho thấy có lẽ một chiến dịch quân sự, với lực lượng từ các xứ [[Syria]] và [[Ai Cập]], đã được tiến hành. Điều chắc chắn là tới năm [[107]], các binh đoàn [[Lê dương La Mã]] đã đồn trú tại các khu vực quanh [[Petra]] và [[Bostra]], như được chỉ ra trong các cuộn giấy [[giấy cói|papyrus]] tìm thấy ở Ai Cập. Đế quốc La Mã mở rộng thêm tỉnh [[Arabia Petraea]], tức tỉnh Ả Rập (nay là phần phía Nam [[Jordan]] và Tây Bắc [[Ả Rập Saudi|Ả Rập Xê-út]]), được Hoàng đế công nhận vào năm 107. Những bi văn và tài liệu ở tỉnh đã cho thấy sự kiện này.<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
=== Mở rộng Đế chế đến cực điểm ===
[[Tập tin:RomanEmpire 117.svg|nhỏ|phải|300px|Biên giới đế quốc La Mã dưới thời Trajan ([[117]])]]
Vào năm [[113]], ông tiến hành chiến dịch cuối cùng để phản ứng lại việc Đế quốc [[Người Parthia|Parthia]] tôn một nhân vật đối lập với người La Mã lên làm vua nước [[Armenia]], một vương quốc bị cả hai đế quốc áp đặt bá quyền kể từ thời Hoàng đế [[Nero]]. Đây sẽ là một thử thách hết sức lớn lao đối với ông và ba quân.<ref name="WildfeuerGiớithiệu">C. R. H. Wildfeuer, [http://books.google.com.vn/books?id=y1C-PQAACAAJ&dq=%22trajan%22 ''Trajan - Lion of Rome: The Untold Story of Rome's Greatest Emperor'']</ref> Tuy các võ tướng của ông đều khuyến khích ông xuất chinh do họ muốn có được vinh hiển cho riêng mình, Publius Aelius Hadrianus phản đối, bởi lẽ Hoàng đế đã hao tổn nguồn nhân lực của đất nước trong cuộc chinh phạt Dacia do đó không nên đẩy đất nước một lần nữa vào cảnh binh đao, và lại đất Parthia quá xa để có thể phòng thủ.<ref name="WIllDurant413">Will Durant, ''Caesar and Christ: A History of Roman Civilization and of Christianity from Their Beginnings to A.D. 325'', trang 415</ref> Nhưng, Hoàng đế Traianus tổ chức hành binh đánh Armenia, lật đổ tân vương nước này và sáp nhập luôn cả Armenia vào lãnh thổ đất nước. Tiếp đó, ông thân hành tiến quân về phương Nam, đánh thẳng vào chính quốc Parthia, hạ các thành phố lớn [[Babylon]], [[Seleucia]] và cuối cùng là kinh đô [[Ctesiphon]] năm [[116]]. Ngay trước khi ca khúc khải hoàn kéo đoàn binh thắng trận vào thành Ctesiphon, ông đã được Viện Nguyên lão La Mã đề cử làm ''Parthicus'', tức "Nhà chinh phạt của giặc Parthia".<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
Ông cũng công bố tỉnh [[Assyria thuộc La Mã|Assyria]], có vẻ tỉnh này có gồm thâu cả lãnh thổ Adiabene, và có lẽ vị Hoàng đế cũng đề xướng những chính sách để cai quản nền tài chính của vùng.<ref name="Luttvak, Grand Strategy, 110">Luttvak, Grand Strategy, 110</ref> Nhưng ông không dừng lại ở đó, cuối năm 116, ông đánh chiếm thành phố tráng lệ [[Susa]]. Ông cho đi đày vua Parthia là [[Osroes I]] và đưa người cháu của Osroes I là [[Parthamaspates]] lên làm vua chư hầu xứ Parthia. Theo sử sách, đích thân Hoàng đế Traianus tấn phong Vương miện cho Parthamaspates.<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
[[Tập tin:Traianus Glyptothek Munich 72.jpg|nhỏ|trái|180px|Tượng bán thân Trajan, [[Glyptothek]], [[München|Munich]].]]
Tới lúc đó, sức khỏe của Hoàng đế Traianus bắt đầu suy sụp. Thành lũy của thành phố [[Hatra]], nằm trên bờ sông [[Tigris]] ở phía sau ông, tiếp tục kháng cự lại các đợt công kích liên tục của quân La Mã. Thành Hatra có vị trí địa lý quan trọng vì thế binh tướng của ông luôn phải cướp phá pháo đài này.<ref name="JulianBennet203">Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
Cuối năm 116, Traianus ngày càng yếu, ông xuống thuyền đi về Ý. Sức khỏe của ông sa sút suốt mùa xuân và hè năm [[117]], và tới khi ông đến được Selinus ở [[Cilicia]], về sau gọi là Trajanopolis, ông mất đột ngột vì bị phù vào ngày 9 tháng 8. Ông trị nước được 19 năm và hưởng thọ 64 tuổi.<ref name="WIllDurant413">Will Durant, ''Caesar and Christ: A History of Roman Civilization and of Christianity from Their Beginnings to A.D. 325'', trang 413</ref>
Hoàng đế Hadrianus khi ấy có đề nghị rằng vị ''Optimus Imperator'' (Hoàng đế kiệt xuất hơn cả), do thật quá ư là được lòng dân khi còn sinh thời, không thể chết đi mà phải sống mãi trong lòng toàn dân. Vì lẽ đó, cũng trong năm 117, Viện Nguyên lão tôn Traianus lên hàng thần linh.<ref name="JulianBennett217">Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
== Vinh danh ==
Dòng 81:
[[Tập tin:Traiani iustitia.jpg|nhỏ|200px|[[Eugène Delacroix]]. ''Công lý của Trajan''.]]
Sinh thời, Hoàng đế Traianus được tôn vinh là ''Optimus Princeps'', tức bậc đại minh quân không ai sánh bằng. Sau khi ông về cõi vĩnh hằng, người ta kể rằng không có một vị Hoàng đế nào xuất sắc hơn được ông, hay được lòng dân hơn ông. Ông là vị Hoàng đế có tài dụng binh như thần, không bao giờ ngưng nghỉ chiến đấu và có lòng vô cùng dũng cảm theo lối [[triết học Khắc Kỷ]].<ref>Will Durant, ''The Story of Civilization III: Caesar and Christ'', trang 408</ref> Vào giữa [[Thế kỷ 4|thế kỷ thứ 4]], người ta tôn vinh ông không chỉ là một vị chủ tướng lừng lẫy đưa các binh sĩ tinh nhuệ La Mã đến niềm vinh quang chiến thắng, mà còn là một vị Hoàng đế liêm chính và đức độ có một không hai.<ref name="JulianBennett325">Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
Vào [[Thế kỷ 18|thế kỷ thứ 18]], khi đêm trường Trung Cổ đã đi qua từ lâu và nhân dân [[châu Âu]] đang sống trong [[thời kỳ Khai sáng|thời kỳ Khai Sáng]], danh thơm của ông hãy còn tồn vững tồn.<ref name="JulianBennettsxvi"/> Nhà hiền triết Pháp [[Montesquieu]] đã ghi nhận đến ''"sự huy hoàng của Traianus"''.<ref>[[Will Durant]], Ariel Durant, ''The age of Voltaire: a history of civilization in Western Europe from 1715 to 1756, with special emphasis on the conflict between religion and philosophy'', trang 347</ref> Vua nước [[Tây Ban Nha]] là [[Carlos III của Tây Ban Nha|Carlos III]] xuống lệnh do nhà họa sĩ [[Anton Raphael Mengs]] vẽ bức tranh ''Lễ khải hoàn của Traianus'' trên trần [[Hoàng cung Madrid]] – được coi là kiệt tác lớn nhất của nhà họa sĩ. Nhà văn hào [[Pháp]] [[Voltaire]], khi ca ngợi ông [[vua hiền triết]] [[Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại Đế]] nước [[Phổ (quốc gia)|Phổ]]), đã viết rằng ông sáng suốt chẳng kém chi Hoàng đế Traianus.<ref>[[David William Fraser|David Fraser]], ''Frederick the Great: King of Prussia'', trang 63</ref><ref>Nathan Ausubel, ''Superman: the life of Frederick the Great'', trang 346</ref> Vào năm [[1740]], Voltaire cũng tôn vinh vị vua này là ''"có nhân cách của [[Titus]], '''Traianus'''..."''.<ref>[[Theodor Schieder]], ''Frederick the Great'', trang 170</ref> Có kiến trúc sư cung đình cũng tán dương Friedrich II Đại Đế là Traianus, và bản thân ông cũng trích dẫn vị anh hùng Traianus để minh chứng tính "chính nghĩa" của các cuộc chinh phạt của mình.<ref>[[Giles MacDonogh]], ''Frederick The Great'', trang 185</ref><ref>Giles MacDonogh, ''Frederick The Great'', trang 350</ref> Không những liên tục ca ngợi Friedrich II Đại Đế là Traianus trong các thư từ,<ref>[[Robert B. Asprey]], ''Frederick the Great: the magnificent enigma'', trang 116</ref> mà chính Voltaire cũng tán tụng vua Pháp [[Louis XV của Pháp|Louis XV]] là vị Hoàng đế La Mã huy hoàng năm xưa.<ref>David Fraser, ''Frederick the Great: King of Prussia'', trang 141</ref><ref>[[Pierre Gaxotte]], ''Louis XV'', trang 280</ref> Thời đó, người ta cũng ví von vị Hoàng đế [[Đế quốc La Mã Thần thánh|La Mã Thần thánh]] anh minh [[Joseph II của đế quốc La Mã Thần thánh|Joseph II]] với Traianus - một trong những vị Hoàng đế kiệt xuất nhất của La Mã thưở xa xưa mơ hồ.<ref name="ReferenceA"/> Nhà [[lịch sử|sử học]] người Anh là [[Edward Gibbon]] trong cuốn sử La Mã của mình có đưa ra khái niệm "Ngũ hiền đế", trong đó Traianus là vị hiền đế thứ hai.<ref name="JulianBennett325"/> Gibbon kể rằng vị đại anh quân Traianus đã đưa Đế quốc của ông lên đến thời kỳ hoàng kim, và để ca ngợi công đức của ông, hai nhà soạn nhạc nước Ý là [[Giuseppe Nicolini]] và Prunetti đã sáng tác vở [[Opera|nhạc kịch]] ''Trajano in Dacia''.<ref name="JulianBennettsxvi"/> Và ngày nay, Hoàng đế Traianus vẫn hoàn toàn là một minh quân đức độ trong mắt người đời, chiếm vai trò lớn lao trong các vị Hoàng đế La Mã từ cổ chí kim. Và, bên cạnh đó, những công trình xây cất đồ sộ của ông ở kinh thành La Mã vẫn gây cho chúng ta phải ấn tượng, và đường lối xây dựng pháp luật và hành chính của ông vẫn còn có ảnh hưởng đến đời sống.<ref>Julian Bennett, ''Trajan: optimus princeps
== Chú thích ==
|