Khác biệt giữa bản sửa đổi của “James II của Anh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: → (151), , → , (2), : → : , (sinh → (s. using AWB
Dòng 1:
{{bài cùng tên|James II}}
{{Infobox royalty
| name =James II & VII
| image =James_II_1633-1701.jpg
| caption =Chân dung James II do họa sĩ người Pháp [[Nicolas de Largillière]] vẽ khoảng năm 1686.
| succession = Vua của [[Danh sách vua và nữ hoàng Anh|Anh]], [[Danh sách vua Scotland|Scotland]] và [[Vua của Ireland|Ireland]]
| moretext = ([[Tước hiệu hoàng gia Anh#Tước hiệu của Hoàng gia Anh và Scotland|...]])
| reign =6 tháng 2, 1685 – 11 tháng 12, 1688
| coronation =23 tháng 4, 1685
| predecessor =[[Charles II của Anh|Charles II]] {{Vương miện}}
| successor =[[William III của Anh|William III & II]] và [[Mary II của Anh|Mary II]]<br />''([[William và Mary]])'' {{Vương miện}}
| thông tin phối ngẫu = ẩn
| spouse =[[Anne Hyde]]<br />cưới năm 1660; qua đời năm 1671<br />[[Mary xứ Modena]]<br />cưới năm 1673; góa bụa năm 1701
| kiểu phối ngẫu =Vợ
| thông tin con cái = ẩn
| issue = [[Mary II của Anh|Mary II]] {{Vương miện}}<br />[[Anne của Anh]] {{Vương miện}}<br />[[James FitzJames, Công tước thứ nhất của Berwick]]<br />[[James Francis Edward Stuart|James, Hoàng tử xứ Wales]]<br />[[Louisa Maria Teresa Stuart]]
| issue-link = #Con cái
| issue-pipe = và nhiều nữa
| styles =''Kim thượng'' Đức Vua James đệ nhị<br />''Kim thượng'' Đức Vua <br />Công tước xứ York<br /> Hoàng tử James
| house =[[Nhà Stuart]]
| father =[[Charles I của Anh]] {{Vương miện}}
| mother =[[Henrietta Maria|Henrietta Maria của Pháp]]
| date of birth ={{birth date|1633|10|14|df=y}}<br /><small>([[Lịch Julius|Lịch mới]]: 24 tháng 10, 1633)</small>
| place of birth =[[Cung điện Thánh James]], [[Luân Đôn]]
| date of death ={{Death date and age|1701|9|16|1633|10|14|df=yes}}(lịch mới)
| place of death =[[Saint-Germain-en-Laye]], [[Pháp]]
| place of burial =Saint-Germain-en-Laye
|religion =[[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo La Mã]]
| signature = JamesIISig.svg
}}
 
'''James II và VII'''<ref name=james7>Ở Scotland, người ta gọi ông là James VII vì trước thời ông, nước Scotland có 6 vị vua khác mang hiệu là James.</ref> ([[14 tháng 10]] năm [[1633]] – [[16 tháng 11]] năm [[1701]])<ref>Một khẳng định tìm thấy ở nhiều nguồn mà James II qua đời ngày 06 tháng chín năm 1701 (ngày 17 tháng 9 năm 1701 theo lịch mới) có thể là kết quả của một tính toán sai lầm được thực hiện bởi một tác giả vô danh ghi trong tài liệu "An Exact Account of the Sickness and Death of the Late King James II, as also of the Proceedings at St. Germains thereupon, 1701, in a letter from an English gentleman in France to his friend in London" (Somers Tracts, ed 1809-1815,. XI, tr 339-342). Tài liệu này viết: "Và vào thứ sáu ngày liền 17, khoảng ba giờ chiều, nhà vua đã chết, những ngày ông luôn luôn tuyệt thực để tỏ lòng thành kính với tình yêu của Đấng cứu thế thiêng liêng , ngày này ngày ông từng mong muốn được chết, và vào giờ thứ chín, theo vào tài liệu của người Do Thái, khi Đấng Cứu Thế chúng ta đã chịu đóng đinh." Vì 17 tháng 9, 1701 [[Lịch mới]] rơi vào ngày thứ bảy nhưng tác giả khẳng định rằng James qua đời vào ngày thứ Sáu, "ngày ông từng mong muốn được chết", một kết luận không thể tránh khỏi là các tác giả tính nhầm ngày mà sau này đã được đưa vào nhiều công trình tham khảo. Xem "The English Historical Documents 1660–1714", hiệu đính bởi bởi Andrew Browning (London và New York: Routledge, 2001) , 136-138.</ref> là vua của [[Vương quốc Anh|Anh]] và [[Vương quốc Ireland|Ireland]] với vương hiệu '''James II''' và cũng là vua của [[Scotland]] với vương hiệu '''James VII''',<ref name=james7/> từ ngày [[6 tháng 2]] tháng [[1685]] tới [[11 tháng 12]] năm [[1688]]. Ông là vị vua theo [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo La Mã]] cuối cùng cai trị ba vương quốc [[Vương quốc Anh|Anh]], [[Vương quốc Scotland|Scotland]] và [[Vương quốc Ireland|Ireland]]. James thừa hưởng ngôi báu từ người anh trai [[Charles II của Anh|Charles II]] sau khi Charles II qua đời vào năm 1685 mà không có một người con hợp pháp nào. Từ ngày đầu ở ngôi, ngày càng nhiều thành viên của các phe phái chính trị và tôn giáo của Anh chống lại James vì ông quá thân thiện với [[Pháp]], quá xem trọng [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo La Mã]] và việc ông [[quân chủ chuyên chế|quá chuyên quyền]]. Sự căng thẳng này bùng nổ khi nhà vua có được một [[Thái tử|Hoàng thái tử]] theo Công giáo La Mã là [[James Francis Edward Stuart]], những quý tộc hàng đầu liền kêu gọi vương công [[William III của Anh|William III xứ Orange]] (con rể và cháu của James) đem quân từ [[Hà Lan]] đổ bộ vào Anh. Điều này buộc James chạy khỏi Anh (và vì thế ông bị Quốc hội Anh xem như tự thoái vị)<ref>[[Quốc hội Quy ước (1689)|Quốc hội Quy ước Anh]] cho rằng James thoái vị vào ngày [[11 tháng 12]] năm 1688. [[Quốc hội Scotland]] vào ngày [[11 tháng 4]] năm 1689 tuyên bố ông mất ngôi báu.</ref> trong cuộc [[Cách mạng Vinh Quang]] năm 1688. Nối ngôi ông chính là William, với Vương hiệu William III, đồng cai trị với vợ (và cũng là con gái của James) là [[Mary II của Anh|Mary II]] trong thời kỳ gọi là [[William và Mary]] từ năm 1689. James sau đó đã có những nỗ lực mạnh mẽ nhằm giành lại ngôi báu với việc ông đổ bộ lên Ireland năm 1689 nhưng ông buộc phải nhanh chóng quay về Pháp mùa hè năm 1690, sau sự kiện lực lượng thân ông là [[Những cuộc nổi dậy Jacobite|Jacobite]] bị lực lượng [[Williamite]] của William đánh bại tại [[trận sông Boyne]]. Ông trải qua phần đời còn lại như là một người tranh chấp ngai vàng Anh tại một lâu đài ở Pháp dưới sự bảo trợ của người anh họ và đồng minh là vua [[Louis XIV của Pháp]].
 
Vua James II được biết đến nhiều vì niềm tin của ông vào chủ nghĩa [[quân chủ chuyên chế]] và những nỗ lực nhằm đem lại [[tự do tín ngưỡng|tự do tôn giáo]] cho thần dân của mình, những điều trái với đòi hỏi của [[Quốc hội Anh]]. Quốc hội Anh, vốn đang chống lại chủ nghĩa chuyên chế đang lên cao ra tại nhiều quốc gia [[Châu Âu]] khác cũng như phản đối việc [[Anh giáo]] mất [[Quốc giáo|vị thế tối cao trong luật pháp]], cho rằng sự bất đồng của họ là cách để bảo vệ "những tự do vốn có của nhân dân Anh", theo như cách gọi của họ. Sự căng thẳng này làm cho bốn năm cai trị của vua James II trở thành một cuộc tranh chấp về quyền lực của Quốc hội Anh và nhà vua, điều mà rốt cục làm James phải mất ngôi. Việc này còn dẫn đến sự kiện Quốc hội thông qua Luật về các Quyền năm 1689 (''Bill of Rights 1689'') nhằm tăng quyền cho chính mình và hạn chế vương quyền, và việc [[Nhà Stuart]] bị thay thế bởi [[nhà Hanover]] qua Đạo luật về Quyền kế vị 1701 (''Act of Settlement 1701'').
Dòng 37:
[[Tập tin:Charles I and James II.png|nhỏ|Vị vua tương lai James II và cha ông, vua [[Charles I của Anh|Charles I]]]]
 
Hoàng tử James là người con thứ hai sống đến tuổi trưởng thành của vua [[Charles I của Anh|Charles I]] và Công chúa [[Henrietta Maria|Henrietta Maria của Pháp]]. Ông sinh tại [[Cung điện Thánh James]] ở [[thủ đô]] [[Luân Đôn]] vào ngày 14 tháng 10, 1633.<ref>Miller, 1</ref> Cùng năm, ông được [[Tổng giám mục Canterbury]] thuộc [[Anh giáo]] là [[William Laud]] rửa tội.<ref name=callow31>Callow, 31</ref> James được giáo dục cùng với anh trai của mình, vị vua tương lai [[Charles II của Anh]], và hai con trai [[George Villiers, Công tước thứ hai xứ Buckingham|George]] và Francis Villiers của Công tước thứ nhất xứ Buckingham [[George Villiers, Công tước thứ nhất xứ Buckingham|George Villiers]].<ref>Callow, 34</ref> Khi lên 3, James được phong làm [[Đô đốc|Đại Đô đốc Anh Quốc]]. Vị trí này ban đầu chỉ mang tính danh dự nhưng sau đó lại có quyền lực đáng kể sau cuộc [[Khôi phục vương vị Anh]] (''the Restoration''), khi mà James đã trưởng thành.
 
== Nội chiến Anh ==
Dòng 43:
 
== Lưu vong ở Pháp ==
Giống như anh trai mình, James tìm kiếm sự tỵ nạn ở Pháp và sau đó ông gia nhập Quân đội Pháp, dưới quyền của [[Nguyên soái|Thống chế]] [[Henri de la Tour d'Auvergne, Tử tước Turenne|Turenne]], chiến đấu chống lại phe [[Fronde]] và sau đó chống lại đồng minh Tây Ban Nha của phe này.<ref name=miller16>Miller, 16–17</ref> Trong thời gian phục vụ Quân đội Pháp, James có được kinh nghiệp thực chiến đầu tiên của mình. Theo một nhân chứng, ông "''luôn bạo dạn và tiến lên dũng cảm để hoàn thành mọi thứ''".<ref name=miller16a>Nguyên văn tiếng Anh: ''ventures himself and chargeth gallantly where anything is to be done'', Miller, 16–17</ref> Năm 1656, khi mà anh trai Charles của James giao kết đồng minh với kẻ thù của Pháp là Tây Ban Nha, James bị trục xuất khỏi Pháp và bị loại ngũ khỏi quân đội của Thống chế Turenne.<ref>Miller, 19–20</ref> James sau đó tranh cãi dữ dội với anh trai của mình về việc Charles chọn giao kết với Tây Ban Nha thay vì Pháp. Với một cuộc sống lưu vong nghèo khổ, cả Charles và James hầu như không có thể làm gì để tác động vào cục diện quan hệ rộng lớn giữa các vương quốc, và cuối cùng James cùng em trai [[Henry Stuart, Bá tước xứ Gloucester|Henry]] của mình đi đến [[Brugge|Bruges]] thuộc [[Bỉ]] và gia nhập Quân đội Tây Ban Nha dưới quyền tướng [[Louis II de Bourbon, Prince de Condé|Louis, Vương công của Condé]]. Sau đó ông đối đầu với những đồng đội cũ trong quân đội Pháp của mình trong trận đánh tại [[Trận Dunes (1658)|Dunes]].<ref>Miller, 19–25</ref> Trong những năm tháng phục vụ Quân đội Tây Ban Nha, James kết bạn với hai anh em Công giáo người [[Cộng hòa Ireland|Ireland]] theo hầu nhà vua, [[Tổng giám mục Peter Talbot|Peter]] và [[Richard Talbot, Bá tước thứ nhất của Tyrconnell|Richard Talbot]], và trở nên hơi ghẻ lạnh với những quân sư Anh giáo của anh trai ông.<ref>Miller, 22–23</ref> Vào năm 1659, nước Tây Ban Nha ký kết [[Hiệp định dãy Pyrenees|hiệp ước hòa bình]] với Pháp. Do nghi ngờ về những cơ hội giành lại ngôi báu của anh mình, James nghĩ đến việc nhận lời mời của làm Đô đốc Hải quân của người Tây Ban Nha.<ref>Miller, 24</ref> Cuối cùng, ông khước tứ chức vị này. Năm sau đó, tình hình nước Anh hoàn toàn thay đổi và Charles II lại được đưa lên ngôi.<ref>Miller, 25</ref>
 
== Khôi phục vương vị ==
Dòng 49:
[[Tập tin:James II and Anne Hyde by Sir Peter Lely.jpg|nhỏ|trái|James và Anne Hyde vào thập niên 1660, qua nét vẽ của họa sĩ [[Peter Lely]].]]
 
Sau cái [[chết]] của [[Oliver Cromwell]] vào năm 1658 và theo sau đó là sự sụp đổ của nền [[Cộng hòa Anh]] vào năm 1660, vua Charles II được đưa lên ngôi vua Anh. Tuy James là [[người thừa kế trước mắt]] nhưng xem ra ông sẽ khó có thể lên nối ngôi báu, vì vua Charles II hãy còn trẻ và vì thế có khả năng làm cha.<ref>Callow, 89</ref> Sau khi anh trai phục hồi vương vị, James được phong làm [[Công tước của Albany]] tại Scotland, đồng thời mang tước hiệu Anh Quốc là [[Công tước xứ York]]. Sau khi về nước Anh, James hứa hôn với [[Anne Hyde]], con gái của quan đại thần đầu triều Anh là [[Edward Hyde, Bá tước thứ nhất của Clarendon|Edward Hyde]], việc này ngay lập tức gây tranh cãi.<ref>Callow, 90</ref> Vào năm 1659, trong quá trình tìm cách quyến rũ Anne, James hứa là sẽ cưới bà.<ref>Miller, 44</ref> Năm 1660, Anne có thai với James nhưng sau [[English Restoration|sự kiện phục hồi vương quyền Anh]] và việc James có quyền lực trở lại thì hoàng gia không muốn một hoàng tử cưới một thường dân, mặc kệ bất cứ lời hứa nào James đã đưa ra trước đó.<ref name=miller44>Miller, 44–45</ref> Gần như tất cả mọi người, kể cả cha của Anne khẩn thiết yêu cầu Anne và James không lấy nhau.<ref name=miller44/> Thế nhưng James vẫn lấy Anne qua một lễ cưới bí mật, sau đó họ cũng có được một hôn lễ chính thức vào ngày 3 tháng 9 năm 1660 tại [[Luân Đôn]]. Đứa con trai đầu tiên của họ tên là Charles chết khi đang còn sơ sinh và năm đứa sau đó, cả trai lẫn gái, đều có cùng số phận.<ref name= miller44/> Chỉ có hai cô công chúa sống đến tuổi trưởng thành là [[Mary II của Anh|Mary]] (sinhs. 30 tháng 4 năm 1662) và [[Anne của Anh|Anne]] (6 tháng 2 năm 1665).<ref>Waller, 49–50</ref> Nhà quý tộc người Anh [[Samuel Pepys]] ghi trong nhật ký của ông rằng James rất thương con mình và cách ông làm cha và chơi với con mình "''cũng giống như một người cha bình thường''", điều này trái với cách làm cha mẹ luôn giữ khoảng cách trong hoàng gia thời gian đó.<ref>Miller, 46.</ref> Vợ của James là một người rất tôn thờ chồng và gây ra nhiều ảnh hưởng đối với các quyết định của ông.<ref>Miller, 45–46.</ref> Dù vậy, James vẫn có nhiều tình nhân khác nhau, bao gồm [[Arabella Churchill (cung nữ)|Arabella Churchill]] và [[Catherine Sedley, Nữ Bá tước xứ Dorchester|Catherine Sedley]], và vì thế James trở nên nổi danh như là một "''tay hám gái vô ý thức nhất lúc sinh thời''".<ref>Nguyên văn tiếng Anh: ''the most unguarded ogler of his time'', Miller, 46. [[Samuel Pepys]] ghi trong nhật ký của mình là James "dán mắt đắm đuối vào vợ tôi" (''did eye my wife mightily''). Ibid. Sở thích James về phụ nữ là một thứ thường hay bị phỉ báng, với việc [[Gilbert Burnet]] bình luận một câu nổi tiếng rằng những tình nhân của James thì "do các linh mục [của James] tặng cho như là phép ân xá cho sự xưng tội" (''given him by his priests as a penance'') Miller, 59.</ref> Với Catherine Sedley, James có một con gái tên là [[Catherine Darnley]] (tên này được đặt vì James là một hậu duệ của Huân tước [[Darnley]] [[Henry Stuart, Huân tước Darnley|Henry Stuart]]). Anne Hyde qua đời năm 1671.
 
=== Các chức vị chính trị và quân sự ===
Sau cuộc Khôi phục Vương vị, James được phê chuẩn làm [[Admiralty|Đại Đô đốc]] (''Admiralty''), nhờ đó ông có quyền bổ nhiệm quan Tổng trấn của [[Portsmouth]] và chức vụ [[Lord Warden of the Cinque Ports]] .<ref>Callow, 101.</ref> James thống lĩnh [[Hải quân Hoàng gia Anh|Hải quân Hoàng gia]] trong các cuộc [[Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai]] (1665–67) và [[Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ ba|lần thứ ba]] (1672–74). Sau khi [[Hải quân]] [[Hà Lan]] [[Cuộc tấn công biển Medway|tấn công biển Medway]] vào năm 1667, James trông coi việc nghiên cứu và tái lập hệ thống phòng thủ bờ biển phía Nam.<ref>Callow, 104.</ref> Chức Đại đô đốc cùng với lợi tức từ [[Bưu điện Anh]] và thuế [[rượu]] (mà Charles II trao cho James sau khi được khôi phục vương vị) đem đến cho James một mức lương đủ để duy trì một gia trang khá lớn.<ref>Miller, 42.</ref>
 
Vào năm 1664, vua Charles II giao cho James cai quản vùng đất giữa [[sông Delaware]] và [[sông Connecticut]] ở [[châu Mỹ]]. Sau khi bị Quân đội Anh chiếm đóng, lãnh thổ cũ [[Tân Hà Lan]] của Hà Lan được đặt tên là [[Tỉnh New York]] để vinh danh James. Sau khi tỉnh New York được thành lập, Công tước James giao một phần của thuộc địa mới cho [[George Carteret]] và [[John Berkeley, Nam tước Berkeley thứ nhất của Stratton|John Berkeley]] cai quản. [[Pháo đài Orange]], cách [[sông Hudson]] 240 kilômet về phía Bắc, được đổi tên thành [[Albany, New York|Albany]], theo tước hiệu của James tại Scotland.<ref name =miller44/> Vào năm 1683, ông trở thành Giám đốc [[Công ty Cảng Hudson]], nhưng không đóng vai trò tích cực trong việc cai quản Công ty này.<ref name= miller44/> James cũng cai quản [[Công ty Hoàng gia châu Phi]] - một Công ty [[buôn bán nô lệ]].<ref>Miller, 43–4.</ref>
 
Vào tháng 9 năm 1666, vua anh Charles II truyền lệnh cho ông lãnh đạo việc chữa cháy trong vụ [[Đại hỏa hoạn Luân Đôn 1666|Đại hỏa hoạn Luân Đôn]], trong khi Thị trưởng khi ấy là [[Thomas Bloodworth]] không làm gì. Mặc dù chức vụ này hầu như không có quyền lực chính trị, những hoạt động và tài năng lãnh đạo của ông đều đáng chú ý. Một nhân chứng đương thời ghi nhận trong một bức thư đề ngày 8 tháng 9 (năm 1666) như sau: "Công tước xứ York đã giành được con tim của nhân dân qua việc ông liên tục dồn tâm trí một cách không mỏi mệt cả ngày lẫn đêm để giúp dập tắt trận cháy".<ref>''"The Duke of York hath won the hearts of the people with his continual and indefatigable pains day and night in helping to quench the Fire"'', Cách viết đã được hiện đại hóa đễ dễ đọc; câu nói này được ghi lại bởi Adrian Tinniswood (2003). 80. ''By Permission of Heaven: The Story of the Great Fire of London''. London: Jonathan Cape.</ref>
 
=== Cải sang Công giáo và tục huyền ===
[[Tập tin:Mary of modena lg.jpg|trái|nhỏ|upright|[[Mary xứ Modena]], người vợ chính thức thứ hai của James]]
 
Thời gian James trải qua ở Pháp đã để ông tiếp xúc với đức tin và các nghi lễ của [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo La Mã]]; sau đó ông và vợ mình, bà Anne, ngày càng có cảm tình với Công giáo.<ref>Miller, 58–59; Callow, 144–145. Callow viết rằng Anne đã "tạo ra một tác động riêng lẻ lớn lên suy nghĩ của James" và bà đã cải đạo ngay sau cuộc khôi phục Vương vị, "hầu như chắc chắn trước chồng mình".</ref> Vào khoảng năm 1668 hay 1669, James cải sang Công giáo qua việc nhận [[Tiệc Thánh#Công giáo Rôma|bí tích thánh thể]]. Tuy nhiên, việc cải đạo này của James được giữ bí mật trong một thời gian và ông vẫn tiếp tục đi lễ nhà thờ [[Anh giáo]] cho tới tận 1676.<ref>Callow, 143–144; Waller, 135</ref> Mặc dù đã cải đạo, ông vẫn tiếp tục có một quan hệ hợp tác chủ yếu với các tín đồ Anh giáo, bao gồm [[John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất|John Churchill]], [[George Legge, Nam tước thứ nhất Dartmouth|George Legge]] và các tín đồ [[Huguenot|Kháng cách người Pháp]] như là Bá tước thứ hai xứ Feversham [[Louis de Duras, Bá tước thứ hai xứ Feversham|Louis de Duras]].<ref>Callow, 149</ref>
 
Vì lo sợ những ảnh hưởng của các tín đồ Công giáo trong triều đình, Quốc hội Anh ra một đạo luật mới tên [[Luật Khảo sát]] (''Test Act'') năm 1673.<ref name=miller69>Miller, 69–71</ref> Luật mới này đòi hỏi tất cả quan lại và tướng tá quân đội phải ra một lời tuyên thệ. Lời tuyên thệ này buộc họ phải chối bỏ [[phép thánh thể]] và lên án một số lễ nghi khác của Công giáo như là sự mê tín và mê muội và chấp nhận bí tích thánh thể của [[Anh giáo]].<ref>Kenyon, 385</ref> James từ chối thực hiện bất cứ yêu cầu nào của Luật Khảo sát và thay vào đó ông từ bỏ chức Đại Đô đốc của Hải quân Anh. Và chính việc này đã công khai việc James đã cải đạo.<ref name=miller69/>
 
Vua Charles II chống đối việc caỉ đạo, và huấn lệnh rằng, các con gái của James là Mary và Anne phải được nuôi dậy với tư cách là những tín đồ Kháng Cách.<ref>Waller, 92</ref> Tuy nhiên, ông cho phép James cưới một tín đồ Công giáo là [[Mary xứ Modena]] - một Công nương mới 15 tuổi người [[Ý]].<ref>Waller, 16–17</ref> Ngày 20 tháng 11 năm 1673, James tiến hành việc cưới vắng mặt Mary theo nghi lễ Công giáo.<ref>Miller, 73</ref> Ngày 21 tháng 9, Mary tới Anh Quốc và giám mục Oxford là [[Nathaniel Crew, Nam tước họ Crew thứ 3|Nathaniel Crew]] tiến hành một vài nghi lễ Anh giáo và không làm gì hơn ngoài công nhận cuộc hôn nhân Công giáo của James và Mary.<ref>Turner, 110–111</ref> Nhiều người Anh, vốn chẳng tin vào Công giáo, xem vị Công nương mới của xứ York là một gián điệp của [[Giáo hoàng Clêmentê X]].<ref>Waller, 30–31</ref>
 
=== Cuộc Khủng hoảng Loại trừ ===
Dòng 71:
[[Tập tin:James Scott.jpg|nhỏ|upright| Công tước thứ nhất Monmouth [[James Scott, Công tước thứ nhất Monmouth|James Scott]], người được cho là con trai bất hợp pháp của Charles II và gắn liền với nhiều âm mưu chống lại James.]]
 
Vào năm 1677, James miễn cưỡng để gả con gái là Mary cho một tín đồ Kháng Cách là [[William III của Anh|William xứ Orange]] (cũng là cháu trai của James). James ưng thuận sau khi vua anh Charles II và William đồng tình về cuộc hôn nhân này.<ref>Miller, 84; Waller, 94–97. Theo Turner, James phản ứng lại thỏa thuận như sau "''[Mọi người] cần phải phục tùng Đức Vua, và tôi rất là vui nếu toàn bộ thần dân học tập tôi mà phục tùng Ngài''" (The King shall be obeyed, and I would be glad if all his subjects would learn of me to obey him) Turner, 132.</ref> Bất chấp cuộc hôn nhân Kháng Cách này, những nỗi lo sợ về một tiềm năng có một ông vua Anh theo Công giáo vẫn còn đó, sự sợ hãi lại còn gia tăng do vua Charles II và Hoàng hậu [[Catherine xứ Braganza]] không thể sinh con. Cũng trong thời gian này, một linh mục Anh giáo đã bị tước phép tên là [[Titus Oates]] nói về một "[[mưu đồ của Giáo hoàng]]" nhằm giết vua Charles XII và đưa Công tước xứ York lên ngôi báu.<ref>Miller, 87</ref> Âm mưu tưởng tượng này đã làm cho làn sóng chống Công giáo lan tràn mãnh liệt trên khắp nước Anh.
 
Tại Anh Quốc, [[Anthony Ashley-Cooper, Bá tước thứ nhất của Shaftesbury|Bá tước thứ nhất của Shaftesbury]], người từng giữ chức vị quan đại thần đầu triều và là nhân vật chống Công giáo chủ chốt, tìm cách loại trừ James khỏi danh sách những người kế thừa ngai vàng.<ref>Miller, 99–105</ref> Một vài thành viên của Quốc hội còn đề nghị vua Charles II truyền ngôi cho người con bất hợp pháp là [[James Scott, Công tước thứ nhất của Monmouth]].<ref>Harris, 74</ref> Vào năm 1679, khi [[Dự luật Loại trừ]] (''Exclusion Bill'') có khả năng được thông qua, vua Charles II phải giải tán Quốc hội.<ref>Miller, 93–95</ref> Hai [[Danh sách Quốc hội Anh|Quốc hội]] khác được bầu lên vào năm 1680 và 1681, nhưng cũng bị giải tán vì những lý do tương tự.<ref>Miller, 103–104</ref> Cuộc Khủng hoảng Loại trừ góp phần vào sự phát triển của hai đảng phái nước Anh: [[Đảng Whig Anh|phe Wig]] thì ủng hộ Đạo luật Loại trừ, trong khi phe [[Tory]] thì phản đối. Cuối cùng, James không bị mất quyền kế vị, nhưng ông không được làm việc cùng các quan đại thần đầu triều, và phải đóng vai trò nhỏ bén hơn trong Chính phủ của vua Charles II.<ref>Miller, 90</ref>
 
Theo lệnh của nhà vua, James rời khỏi nước Anh mà đến [[Bruxelles|Brussels]] thuộc [[Bỉ]].<ref>Miller, 87–91</ref> Vào năm 1680, ông trở thành Quan Đại diện cao cấp (''Lord High Commissioner'') của xứ Scoland và đến sống tại [[Cung điện Holyrood]] ở [[Edinburgh]] nhằm trấn áp một cuộc nổi dậy và trông coi chính quyền thuộc hoàng gia.<ref>Miller, 95</ref> James sau đó quay về Anh trong thời gian ngắn khi mà Charles bệnh nặng và gần như sẽ chết.<ref>Miller, 98–99</ref> Làn sóng buộc tội chống lại James cuối cùng cũng qua đi, nhưng quan hệ giữa James với nhiều thành viên Quốc hội Anh bao gồm Bá Tước xứ Danby [[Thomas Osborne, Công tước thứ nhất xứ Leeds|Thomas Osborne]] (vốn là đồng minh cũ của James) mãi mãi xấu đi và điều này còn trở thành một nhân tố lớn gây khó khăn cho James.<ref>Miller, 89; Callow, 180–183</ref>
Dòng 90:
Ít lâu sau khi lên ngôi, tân vương James II phải đối phó với một phong trào [[Cuộc nổi dậy Monmouth|nổi dậy]] ở miền Nam Anh Quốc, do cháu trai ông là [[James Scott, Công tước thứ nhất của Monmouth|Công tước của Monmouth]] lãnh đạo, và một cuộc nổi dậy khác tại Scotland do [[Archibald Campbell, Bá tước thứ 9 của Argyll|Archibald Campbell]], [[Bá tước của Argyll]] khởi xướng.<ref>Miller, 140–143; Harris, 73–86</ref> Cả Argyll và Monmouth đều tiến quân từ [[Cộng hòa Hà Lan|Holland]], nơi cháu đồng thời là con rể của của vua James II - [[William III của Anh|William xứ Orange]] - quên ngăn cản họ hoặc chấm dứt việc chiêu mộ binh sĩ của họ.<ref>Miller, 139–140</ref> Argylld đi thuyền đến xứ Scotland và, khi đặt chân lên đây, tuyển thêm binh lính chủ yếu từ [[gia tộc Campbell]] của ông ta.<ref name=harris75>Harris, 75–76</ref> Nhà vua nhanh chóng đàn áp cuộc nổi dậy, và bản thân Argyll bị bắt sống tại [[Inchinnan]] vào ngày [[18 tháng 6]] năm 1685.<ref name=harris75/> Argyll không bao giờ trở thành một mối đe dọa đáng kể đối với nhà vua bởi vì ông ta đến nơi với một lực lượng ít hơn 300 người và không thể kêu gọi được nhiều hơn để gia nhập và chiến đấu dưới ngọn cờ của mình.<ref>Harris, 76</ref> Argyll sau đó bị dẫn độ đến Edinburgh. Tại đây, Argyll không bị xét xử gi bởi trước đó ông đã bị xử và kết án tử hình. Nhà vua phê chuẩn cái án này và ra lệnh Argyll phải bị xử tử trong vòng ba ngày sau khi lệnh phê chuẩn của mình đến nơi.
 
Quân nổi dậy của Monmouth và Argyll có phối hợp với nhau, như Monmouth còn nguy hiểm hơn đối với nhà vua. Monmouth xưng vương tại [[Lyme Regis]] vào ngày [[11 tháng 6]].<ref>Harris, 82–85</ref> Ông ta tìm cách chiêu mộ binh sĩ, nhưng không thể xây dựng một đội quân đủ mạnh để đánh bại dù một đội quân thường trực bé nhỏ của nhà vua.<ref name=miller141>Miller, 141</ref> Quân Monmouth tấn công Quân đội nhà vua vào ban đêm, nhằm đánh úp Quân đội nhà vua, nhưng bị đánh tan tác trong [[trận Sedgemoor]].<ref name=miller141/> Quân đội nhà vua, do Feversham và Churchill thống lĩnh, nhanh chóng phá tan quân Monmouth non yếu.<ref name=miller141/> Bản thân Monmouth bị bắt sống và bị hành quyết tại [[Tháp Luân Đôn]] vào ngày [[15 tháng 7]].<ref name="Harris, 88">Harris, 88</ref> Các Thẩm phán do nhà vua chỉ định—người nổi bật nhất có lẽ là Nam tước [[George Jeffreys, Nam tước Jeffreys thứ nhất|George Jeffreys]]—kết án nhiều phiến quân tội [[đi đày]] để lao công khổ sai ở các thuộc địa của Anh tại [[Vùng Caribe|Caribe]] trong một loạt các phiên xử án về sau được gọi là Các phiên tòa đại hình đẫm máu (''[[Bloody Assizes]]'').<ref>Miller, 141–142</ref> Khoảng chừng 250 phiến quân bị xử tử.<ref name="Harris, 88"/> Dù cả hai cuộc nổi dậy đều bị dập tắt rất dễ dàng, chúng cũng làm cho quyết tâm chống các kẻ thù của James thêm cứng rắn và đồng thời cũng làm gia tăng sự nghi ngờ của ông đối với người Hà Lan.<ref>Miller, 142</ref>
 
=== Chế độ quân chủ chuyên chế và chính sách tự do tôn giáo ===
Dòng 97:
[[Tập tin:Laurence Hyde, Earl of Rochester.jpg|upright|nhỏ|[[Laurence Hyde, Bá tước thứ nhất xứ Rochester|Rochester]], từng là người ủng hộ James nhưng đến năm 1688, ông này quay sang chống đối cùng với nhiều người theo Anh giáo khác]]
 
Nhà vua chủ trương xóa bỏ [[Hình Luật]] (''Penal Law'') tại cả ba Vương quốc của ông, nhưng không có phép những người bất đồng được quyền cầu xin vua cứu vãn khỏi Hình Luật.<ref>Macaulay, 242; Harris, 480-481. Những người [[Covenanter]], vì không thừa nhận James (hay bất cứ vị vua không đúng đắn (''uncovenanted king''), như là một quân vương hợp pháp, sẽ không thỉnh cầu sự ân giảm khỏi Hình luật.</ref> Bằng lời lẽ do chính mình nghĩ ra, James bày tỏ căm phẫn về việc nhiều người thiếu thận trọng trong chủ trương bãi bỏ Hình Luật chống lại những người theo [[Tin Lành|Kháng Cách]].<ref>Macaulay, 242</ref> Khi Quốc hội Scotland mở phiên họp vào năm 1685, James gửi một bức thư đến để tuyên bố nguyện vọng của mình trong việc làm ra những Hình Luật mới chống lại những tín đồ ''khó dạy bảo'' theo [[Giáo hội Trưởng Nhiệm|Giáo hội Trưởng Lão]] và than phiền rằng ông không thể giá lâm tới tận nơi để mà giới thiệu điều luật đó. Đáp lại, Quốc hội Scotland thông qua một bộ luật quy định rằng "''bất cứ ai truyền giáo trong một cuộc tập hợp tôn giáo bất hợp pháp trong nhà, hay là người tham gia một cuộc tập hợp tôn giáo bất hợp pháp ngoài trời, bao gồm cả người tham gia và người truyền đạo, sẽ bị phạt tội chết và tịch biên gia sản''".<ref>Macaulay, 242; Harris, 70</ref> Vào tháng 3 năm 1686, James gửi một bức thư cho Hội đồng Cơ mật Scotland nhằm vận động sự khoan thứ cho Công giáo nhưng vẫn tiếp tục các chính sách ngược đãi Giáo hội Trưởng Lão, lấy lý do là việc những thành viên hội này từ chối ưng thuận những nguyện vọng của ông.<ref name=mac385>Macaulay, 385-86; Turner, 373</ref> Hội đồng Cơ mật giải thích rằng họ chỉ sẽ ban những giảm nhẹ cho những người theo Công giáo nếu một sự giảm nhẹ tương tự cho những người ''Covenanter'' (những người theo Giáo hội Trưởng Lão ở Scotland) và nếu James hứa sẽ không cố làm gì phương hại tới phong trào [[Tin Lành|Kháng Cách]]. James đồng ý và ông ra một chỉ dụ giảm nhẹ sự ngược đãi cho Giáo hội Trưởng lão nhưng không phải là sự khoan thứ hoàn toàn giống như bên Công giáo, ông tuyên bố rằng Kháng Cách là một tà giáo và ông không hứa là sẽ không định kiến một tà giáo.<ref name=mac385/>
 
Nhà vua phong cho các tín đồ Công giáo La Mã những chức vụ cao nhất trong các Vương quốc của ông, và tiếp kiến vị [[Sứ thần Tòa Thánh|Sứ thần]] của [[Tòa Thánh]] là [[Ferdinando d'Adda]] tại cung đình Anh Quốc - vị sứ giả đầu tiên từ [[Roma]] tới Luân Đôn kể từ thời kỳ trị vì của Nữ hoàng [[Mary I của Anh|Mary I]].<ref>Miller 142; Macaulay, 445</ref> [[Edward Petre]], linh mục nghe xưng tội thuộc [[Dòng Tên]] của James, là một nhân vật đặc biệt gây ra sự giận dữ trong giới Kháng Cách.<ref>Harris, 195–196</ref> Khi quan Khâm Sai Thượng thư (''King's Secretary of State'') là [[Robert Spencer, Bá tước thứ hai xứ Sunderland|Robert Spencer]] bắt đầu việc đưa các nhân vật Công giáo được sủng ái vào trong triều đình thì James bắt đầu mất đi sự tin tưởng của rất nhiều người ủng hộ ông theo Anh giáo.<ref name=miller150>Miller, 150–152</ref> Ngoài ra, Spencer còn thanh trừng cả những người anh em rể theo Anh giáo của nhà vua và những người ủng hộ họ.<ref name=miller150/> Tín đồ Công giáo chiếm chưa tới một phần mười lăm dân số Anh.<ref>Macaulay, 444.</ref> Vào tháng năm năm 1686, James cần phải có được một phán quyết từ các tòa án Thông luật Anh để chứng minh quyền của nhà vua không màn đến các bộ luật của Quốc hội là một quyền hợp pháp. Ông thải hồi toàn bộ những thẩm phán không cùng quan điểm trong vấn đề này cũng như cả vị Trưởng quan Phụ trách Pháp luật (''Solicitor General'') của Triều đình [[Heneage Finch, Bá tước thứ nhất xứ Aylesford|Heneage Finch]].<ref>Macaulay, 368.</ref> Vụ kiện tụng này, được gọi là ''Godden kiện Hales'' xác nhận quyền tự quyết định của nhà vua<ref>Miller, 156-157; Harris, 192-195</ref> với muời một trên mười hai vị Thẩm phán ở ''Godden'' đưa ra phán quyết thuận cho quyền này của nhà vua.<ref>Macaulay, 368-69; Harris, 192</ref>
Dòng 105:
Vào năm 1688, James ra lệnh cho tất cả các linh mục Anh giáo phải đọc bản Tuyên ngôn trước giáo dân nhà thờ của mình. Việc này càng làm các Giám mục Anh giáo trở nên xa cách với người đứng đầu Giáo hội.<ref name=harris216>Harris, 216–224</ref> Tuy bản tuyên ngôn làm cho James có được sự biết ơn ít ỏi từ những tín đồ Công giáo và người biệt giáo, nó làm cho đồng minh truyền thống của hoàng gia là Giáo hội Anh giáo lâm vào thế khó xử khi bị bắt buộc phải tự giảm bớt quyền lợi của mình.<ref name=harris216/> James còn gây nên những phản ứng chống ông mạnh hơn khi ông tìm cách giảm bớt sự độc quyền của Anh giáo trong giáo dục.<ref name=harris224>Harris, 224–229</ref> Ở [[Đại học Oxford]], James làm mất lòng các tín đồ Anh giáo khi ông cho phép các tín đồ Công giáo giữ các chức vụ quan trọng trong hai trường lớn nhất của Oxford là [[Christ Church, Oxford|Christ Church]] và [[University College, Oxford|University College]]. Ngoài ra, James còn tìm cách buộc những Ủy viên Kháng cách của Đại học [[Magdalen College, Oxford|Magdalen College]] (cũng thuộc Oxford) phải bầu [[Anthony Farmer]], một người có nhiều tai tiếng và được xem là một tín đồ Công giáo bí mật,<ref name=farmer>Tôn giáo chính xác mà Farmer theo là chưa rõ ràng. Macaulay nói: Farmer "giả vờ theo Giáo hội Công giáo La mã". Prall, trg. 148, gọi ông là "kẻ có cảm tình với Công giáo". Miller, trg. 170, nói rằng "mặc dù ông đã không tuyên bố mình là người Công giáo, ngừơi ta cũng tin rằng ông đã không còn theo Anh giáo." Ashley, trg. 89, không đề cập đến Farmer bằng tên, mà như là ứng cử viên theo Công giáo của Nhà vua. Tất cả các nguồn đồng ý rằng tiếng xấu của Farmer ở một điểm "ông là một nhân vật tai tiếng" là một cách để người ta ngăn chặn một ứng cử viên không có niềm tin tôn giáo rõ ràng. Xem ví dụ: Prall, trg. 148.</ref> làm giám đốc khi mà vị giám đốc đương quyền qua đời. Việc này vi phạm quyền tự quyết của các Ủy viên trong việc tự do bầu chọn các ứng cử viên.<ref name=harris224/>
 
Vào năm 1687, nhà vua chuẩn bị đưa những người ủng hộ ông vào Quốc hội, để Quốc hội có thể xóa bỏ Luật Khảo sát và Hình Luật. Những [[English Dissenter|người Anh ly khai khỏi Giáo hội Anh giáo]] thuyết phục vua James II bằng cách khẳng định rằng họ ủng hộ ông và ông có thể khỏi cần phải lệ thuộc vào các tín đồ Anh giáo và phái Tory. James mở một cuộc thanh trừng toàn diện nhắm vào các quan lại dưới quyền chống lại kế hoạch của ông, bổ nhiệm các khâm sai (''lords-lieutenant'') mới và tổ chức lại các hội đồng chính quyền các thành thị và các phường hội.<ref>Jones, 132.</ref> Vào tháng 10, James ra lệnh cho các quan Khâm sai ở các tỉnh chất vấn các thành viên Hội đồng Hòa Bình ba câu hỏi tiêu chuẩn : liệu họ có đồng ý bãi bỏ Luật Khảo sát và Hình luật, liệu họ có trợ giúp các ứng cử viên có ý định làm thế và liệu họ có chấp nhận Tuyên ngôn Đặc ân. Trong vòng ba tháng đầu năm 1688, hàng trăm người trả lời một cách thù địch ba câu hỏi trên bị bãi chức.<ref>Jones, 132-33.</ref> Bên cạnh đó, các thuộc cấp của nhà vua được trao quyền ''tiền trảm hậu tấu'' thanh trừng các Hội đồng chính quyền để cố gắng tạo ra vĩnh viễn một guồng máy bầu cử phục tùng hoàng gia.<ref>Jones, 146.</ref> Cuối cùng, vào ngày 24 tháng 8 năm 1688, James đòi công bố các lệnh mở một cuộc tổng tuyển cử.<ref>Jones, 150.</ref> Tuy nhiên, nhận được tin Vương công William xứ Orange sắp đổ bộ lên Anh Quốc, James rút lại các lệnh và gửi thư cho các khâm sai thẩm ra các cáo buộc về việc lạm quyền diễn ra khi xây dựng điều lệ và chuẩn bị cho bầu cử như là một phần của sự nhượng bộ của James để có được sự ủng hộ.<ref>Jones, 159.</ref>
 
== Cuộc Cách mạng Vinh Quang ==
Dòng 125:
Tại Pháp, James được phép sinh sống tại Cung điện Hoàng gia [[Saint-Germain-en-Laye]].<ref>Miller, 235</ref> Vợ của ông và một số người ủng hộ ông cùng trốn chạy với ông, trong số đó có [[John Drummond, Bá tước thứ nhất của Melfort|Bá tước của Melfort]]; phần lớn trong số họ đều là tín đồ Công giáo, nhưng không phải tất cả bọn họ.<ref>Miller, 235–236</ref> Vào năm 1692, đứa con cuối cùng của James là [[Louisa Maria Teresa Stuart|Louisa Maria Teresa]] ra đời.<ref>[http://www.burkes-peerage.net/articles/scotland/page31g.aspx SCOTTISH ROYAL LINEAGE - THE HOUSE OF STUART Part 4 of 6] online at burkes-peerage.net (accessed 9 February 2008)</ref> Một số người ủng hộ ở Anh Quốc âm mưu ám sát vua William III nhằm phục hồi ngôi vua cho James vào năm 1696, nhưng âm mưu này thất bại và gây ra tác dụng ngược làm cho lòng yêu mến người Anh dành cho James thêm xói mòn.<ref>Miller, 238; Waller, 350</ref> Cùng năm đó, vua Louis XIV có đề nghị [[Bầu cử tự do|bầu cử]] James làm vua của [[Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva|Ba Lan]], nhưng bị từ chối vì James lo sợ rằng việc ông đội chiếc Vương miện Ba Lan có thể làm cho ông không thể là vua nước Anh trong tâm trí nhân dân lúc ấy. Sau khi vua Pháp làm hòa với vua William III vào năm 1697, ông ta ít giúp đỡ James hơn hẳn.<ref>Miller, 239</ref>
 
Trong những năm tháng cuối đời, James sinh sống như một [[người sám hối]] khắc khổ.<ref name="Miller, 234–236">Miller, 234–236</ref><ref name="Miller, 234–236"/> Ông viết một truyền ký cho con trai mình để chỉ bảo việc cai trị Anh Quốc, trong đó ông chỉ ra rằng tín đồ Công giáo cần phải nắm giữ một chức Thượng thư, một chức Ủy viên Tài chính, Bộ Chiến tranh và đa số các Sĩ quan trong Quân đội.<ref>Macaulay, 445</ref> James [[Chết|qua đời]] vì một cơn xuất huyết não vào ngày 16 tháng 9 năm 1701 tại [[Saint-Germain-en-Laye]].<ref name=miller240>Miller, 240</ref> Xác của ông được đặt trong một quan tài tại Nhà nguyện Thánh Edmund trong Nhà thờ những người Anh tu theo dòng thánh Bênêđictô ở phố Saint-Jacques, [[Paris]]. Trong tang lễ của ông, tu sĩ [[Henri-Emmanuel de Roquette]] là người đọc bài điếu văn.<ref name=miller240/> Vào năm [[1734]], [[Tổng giám mục thành Paris]] mở án tìm chứng cớ để phục vụ cho việc phong James làm [[Thánh (Công giáo La Mã)|Thánh]], nhưng rồi chẳng có chuyện gì xảy ra sau đó.<ref name=miller240/> Trong cuộc [[Cách mạng Pháp]], lăng mộ của James bị cướp phá và hài cốt của ông bị giày xéo đến mức hầu như không còn chút gì tồn tại tới ngày nay.<ref>Miller, 240; Waller, 401; MacLeod, 349. MacLeod và Waller cho rằng toàn bộ hài cốt của vua James II đã bị mất. [http://jacobite.ca/gazetteer/France/SaintGermain.htm McFerran] nói rằng một phần ruột của James được gửi tới Nhà thờ Giáo xứ St. Germain-en-Laye (được khám phá lại vào năm 1824) chính là phần còn lại được biết đến duy nhất của James. Một [http://books.google.com/books?id=I4oX7koMPh8C&pg=PA592&lpg=PA592&dq=parish+church+%22saint+germain+en+laye%22&source=web&ots=40cIBlBhmE&sig=h8QKaqjxgMhi2sp2UtW5qEYpwxE bài viết] trên tạp chí ''[[English Illustrated Magazine]]'' ở St. Germain ấn bản tháng 9 năm 1901 đồng ý với quan điểm trên.</ref>
 
== Việc kế vị ==
Dòng 134:
 
== Nhận định ==
Những phân tích sử học về vua James II đã trải qua thay đổi đáng kể sau khi ông bị lật đổ. Ban đầu, các nhà sử học [[Sử sách Đảng Whig|Đảng Whig]], do [[Thomas Babington Macaulay|Nam tước Macaulay]] dẫn dắt, phê phán ông là một ông vua chuyên quyền bạo ngược, và [[triều đại]] của ông là ''"sự tàn ác dẫn đến sự khùng điên"''.<ref>Macaulay, 239</ref> Những học giả sau đó, chẳng hạn như [[G. M. Trevelyan]] (con trai của [[Ngài George Trevelyan, Tòng Nam tước thứ hai]] - cháu trai của nhà sử học Macaulay) và David Ogg, trong khi có cái nhìn dung hòa hơn Macaulay, vẫn tiếp tục truyền thống của Macaulay trong thế kỷ 20, xem vua James II là một tên bạo chúa, những nỗ lựa tự do tôn giáo của ông là âm mưu lừa gạt, và triều đại của ông là một sai lầm trong suốt chiều dài lịch sử nước Anh.<ref>Xem Prall, vii-xv, để biết thêm về các cứ liệu lịch sử.</ref> Trong Từ điển Lịch sử Tự nhiên "[[Dictionary of National Biography]]" do [[A. W. Ward]] viết năm 1892, vua James II ''"rõ ràng là kẻ có niềm tin chính trị và tôn giáo"'', dù không có ''"một chút đặc điểm nào của tinh thần yêu nước"''; ''"việc ông ta theo Giáo hội La Mã trước hết đã để giải phóng cấp bách những thần dân Công giáo của ông ta, thứ hai là để đưa nước Anh trở lại thành một nước Công giáo, đó là những mục tiêu mà ông ta nhắm vào trong suốt thời gian trị vì."''<ref>{{DNB Cite|wstitle=James II of England}}</ref>
[[Tập tin:Belloc side.jpg|140px|nhỏ|trái|[[Hilaire Belloc|Belloc]] là một người [[Sự biện hộ cho tôn giáo|người biện hộ]] tiêu biểu cho vua James II.]]
Nhà văn người Anh-Pháp [[Hilaire Belloc]] phá vỡ truyền thống này vào năm 1928. Belloc xem vua James II là một nhân vật đáng kính, vị vua tốt, còn những kẻ thù của ông thuộc ''"một nhóm nhỏ những kẻ gặp thời ... đã phá hủy nền quân chủ xưa cũ của người Anh."''<ref>Belloc, vii</ref> Luận điểm của Hilaire Belloc không thể thay đổi cách nhìn chung của sử học về vua James II trong thời gian đó, nhưng trong các thập niên 1960 và 1970, hai tác giả Maurice Ashley và Stuart Prall đã bắt đầu thừa nhận lại rằng ông có ý tưởng khoan dung mọi tôn giáo, song vẫn nhấn mạnh về sự cai trị độc đoán của ông.<ref>See Ashley, 196–198; Prall, 291–293</ref> Những học giả hiện đại này rời xa lối suy nghĩ thường thấy - tức lối tư tưởng chủ trương rằng cuộc [[Cách mạng Vinh Quang|Cách mạng Vinh quang]] và con đường không hề dứt của tiến bộ và [[dân chủ]] là không thể tránh khỏi. ''"Lịch sử là,"'' Ashley viết, ''"xét cho cùng, câu chuyện của những con người và những cá nhân riêng, cũng như của các tầng lớp và quần chúng nhân dân."''<ref name=ashley9>Ashley, 9</ref> Ông đánh giá hai vua James II và William III là ''"những người có lý tưởng đồng thời nhược điểm của loài người."''<ref name=ashley9/> John Miller, viết về năm 2000, đồng ý với những ghi nhận về chế độ quân chủ chuyên chế của James, nhưng ''"mục tiêu chính của ông là bảo vệ quyền tự do tôn giáo và quyền công dân bình đẳng của người Công giáo. Mọi chính sách 'độc đoán' ... về bản chất đều là để thực hiện được mục đích này."''<ref>Miller, ix</ref> Vào năm 2004, [[W. A. Speck]] viết trong Từ điển mới [[Oxford Dictionary of National Biography]], rằng ''"vua James đã đúng đắn thừa nhận quyền tự do tôn giáo, nhưng cũng tìm cách tăng cường uy lực của Quốc vương."''<ref name=speck>W. A. Speck, "[http://www.oxforddnb.com/view/article/14593 James II and VII (1633–1701)]", ''Oxford Dictionary of National Biography'', Oxford University Press, Sept. 2004; online edn, May 2006, accessed 15 October 2007. Speck còn nói thêm, rằng James "muốn tất cả mọi thần dân đều phải có niềm tin như ông, rằng Giáo hội Công giáo là một Giáo hội chân chính. Ông cũng tin rằng Giáo hội Anh đang được duy trì gượng gạo bằng hình luật ngược đãi những người ngoại đạo. Nếu những điều luật đó được dỡ bỏ, và các cuộc cải đạo sang Công giáo được khuyến khích, thì nhiều cuộc cải đạo sẽ diễn ra... James đánh giá thấp sức lôi cuốn của đạo Tin Lành nói chung và của Giáo hội Anh nói riêng. [Sự lạc quan] của ông là nhiệt huyết và thậm chí là niềm tin mù quáng của một kẻ cải đạo hẹp hòi...." (''wished that all his subjects could be as convinced as he was that the Catholic church was the one true church. He was also convinced that the established church was maintained artificially by penal laws which proscribed nonconformity. If these were removed, and conversions to Catholicism were encouraged, then many would take place … James underestimated the appeal of protestantism in general and the Church of England in particular. His was the zeal and even bigotry of a narrow-minded convert....'')</ref> Ông cũng nói thêm, khác với chính phủ của người Hà Lan, ''"James thật quá độc đoán để có thể kết hợp sự tự do đức tin và một chính phủ được lòng dân. Ông chống trả lại bất kỳ một sự hạn chế nào đối với uy quyền của Quân vương. Đó là lý do mà con tim của ông không có trong những sự nhượng bộ mà ông phải tiến hành vào năm 1688. Ông sẽ muốn sống trong cảnh đày ải mà vẫn còn giữ vững những nguyên tắc của mình hơn là tiếp tục trị vì với tư cách là một vị Quân vương ít quyền uy."''<ref name=speck/>
 
Những kết luận của Tim Harris trong cuốn sách năm [[2006]] của ông đã tóm lược những ý kiến khác nhau của các học giả đời sau đối với vua James II:
{{cquote|''Hẳn là người ta sẽ không thể quyết định về James trong một thời gian dài… Liệu ông là một kẻ ích kỷ đã tin tưởng mù quáng vào niềm tin của minh… là một tên bạo vương đã chà đạp lên mong ước của phần lớn thần dân của ông (ít nhất là tại Anh Quốc và Scotland)… chỉ đơn thuần là một tên ngờ nghệch, hay thậm chí có thể hoàn toàn là một tên ngu xuẩn, không thể nhận thức được những thực tế của sức mạnh chính trị… Hay ông là một ông vua có hoài bão lớn lao và thậm chí là một ông vua sáng suốt—một tên bạo chúa anh minh hoàn toàn vượt trước thời đại ông, có lẽ—là vị vua chỉ cố gắng làm những gì ông nghĩ là tốt nhất đối với các thần dân của ông?''|||Tim Harris<ref>Harris, 478–479</ref>}}
 
== Tước hiệu và danh hiệu ==
{{Infobox British Royalty styles|own
| image = Royal Arms of England (1399-1603).svg
|name=Vua James đệ nhị của Anh
|dipstyle=Kim thượng (His Majesty)
Dòng 243:
| [[Anne của Anh|Anne]] || 06 Tháng Hai 1665 || 01 tháng tám 1714 || kết hôn năm 1683, [[Hoàng thân George của Đan Mạch]], không có con còn sống
|-
| [[Charles Stuart, Công tước của Kendal|Charles, Công tước của Kendal]] || ngày 04 tháng 7 1666 || 22 tháng năm, 1667 ||
|-
| [[Edgar Stuart, Công tước xứ Cambridge|Edgar, Công tước xứ Cambridge]] || ngày 14 tháng 9 năm 1667 || 08 tháng 6 năm 1671 ||
Dòng 265:
| [[James Francis Edward Stuart]]|| 10 Tháng sáu 1688 || ngày 01 tháng một năm 1766 || kết hôn năm 1719, [[Maria Klementyna Sobieska|Mary Sobieski]]; có con
|-
| [[Louisa Maria Teresa Stuart|Louisa Maria Teresa]] || Ngày 28 tháng sáu 1692 || 20 Tháng 4 Năm 1712 ||
|-
| Colspan = 4 |''''' với [[Arabella Churchill (tình nhân Hoàng gia)|Arabella Churchill]]'''''
Dòng 293:
{{Refbegin}}
 
* [[Maurice Ashley (nhà sử học)|Ashley, Maurice]], ''The Glorious Revolution of 1688'', Charles Scribner's Sons, New York, 1966. ISBN 0-340-00896-2.
* [[Hilaire Belloc|Belloc, Hilaire]], ''James the Second'', J.B. Lippincott Co, Philadelphia 1928, popular; Catholic perspective
* Callow, John, ''The Making of King James II: The Formative Years of a King'', Sutton Publishing, Ltd, Stroud, Gloucestershire, 2000. ISBN 0-7509-2398-9.
* Clarke, James S. (Editor), ''The Life of James II'', London, 1816
* Dekrey, Gary S. "Between Revolutions: Re-appraising the Restoration in Britain," ''History Compass'' 2008 6(3): 738-773,
* [[Tom Devine|Devine, T. M.]], ''The Scottish Nation 1700-2007'', Penguin Books, London, 2006. ISBN 0-14-102769-X
* [[Christopher Duffy|Duffy, Christopher]], [http://books.google.com.vn/books?ei=TFdXTempNciPce6U5KwM&ct=result&id=rojfAAAAMAAJ&dq=%22James+II ''The fortress in the age of Vauban and Frederick the Great, 1660-1789''], Routledge & Kegan Paul, 1985. ISBN 0-7100-9648-8.
* Glassey, Lionel, ed. ''The Reigns of Charles II and James VII and II'' (1997)
* Goodlad, Graham. " Before the Glorious Revolution: The Making of Absolute Monarchy?," ''History Review''. Issue: 58; 2007. pp 10+. Examines the Controversies Surrounding the Development of Royal Power under Charles II and James II. [http://www.questia.com/read/5022714365?title=Before%20the%20Glorious%20Revolution%3a%20The%20Making%20of%20Absolute%20Monarchy%3f%20Graham%20Goodlad%20Examines%20the%20Controversies%20Surrounding%20the%20Development%20of%20Royal%20Power%20under%20Charles%20II%20and%20James%20II in Questia]
* [[Henry Hallam|Hallam, Henry]], ''The Constitutional History of England from the Accession of Henry VII to the Death of George II,'' W. Clowes & Sons, London, 1855.
* Harris, Tim, ''Revolution: The Great Crisis of the British Monarchy, 1685–1720'', Penguin Books, Ltd., 2006. ISBN 0-7139-9759-1.
* "James II," ''Encyclopædia Britannica,'' 11th ed. London, 1911: Cambridge University Press.
* Jones, J. R. ''The Revolution of 1688 in England'', Weidenfeld and Nicolson, 1988. ISBN 0-297-99467-0.
* [[John Phillipps Kenyon|Kenyon, J.P.]], ''The Stuart Constitution 1603–1688, Documents and Commentary'', 2d ed., Cambridge University Press, Cambridge 1986. ISBN 0-521-31327-9.
* MacLeod, John, ''Dynasty, the Stuarts, 1560–1807'', Hodder and Stoughton, London 1999. ISBN 0-340-70767-4.
* [[Thomas Babington Macaulay, Nam tước Macaulay thứ nhất|Macaulay, Thomas Babington]], ''[[The History of England from the Accession of James the Second]]. [http://books.google.com/books?id=1oIYAAAAYAAJ Popular Edition in Two Volumes]''. Longmans, London 1889.
* Miller, John. ''James II'' (3rd ed. 2000) ISBN 0-300-08728-4, Miller sees James as more interested in his own survival and tolerance for Catholics and suggests he did not have a grand plan to Catholicize England
* Miller, John. ''The Stuarts'' (2004), 320pp; công trình học thuật cụ thể
* Miller, John. ''The Glorious Revolution'', (2nd ed. 1997) ISBN 0-582-29222-0
* [http://jacobite.ca/kings/james2.htm McFerran, Noel S. (2003). "James II and VII."]
* Mullett, M. ''James II and English Politics 1678-1688'' (1993) ISBN 0-415-09042-3
* Pincus, Steve. ''1688: The First Modern Revolution'' (2009) ISBN 0-300-11547-4, influential new interpretation
* Prall, Stuart, ''The Bloodless Revolution: England, 1688'', Anchor Books, Garden City, New York 1972.
* Royle, Trevor, ''The British Civil Wars: The Wars of the Three Kingdoms, 1638–1660'', Little, Brown, 2004. ISBN 0-312-29293-7.
* Sowerby, Scott, "Of Different Complexions: Religious Diversity and National Identity in James II's Toleration Campaign," ''English Historical Review,'' vol. 124 (2009), pp.&nbsp;29–52.
* Speck, W.A. ''James II'' (2002), argues James did not seek to impose Catholicism, but his ambitions went far beyond equal treatment for Catholics.