Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giáo hoàng Xíttô IV”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 51 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q163514 Addbot
n clean up, replaced: → , Hồng y Giáo chủ → Hồng y using AWB
Dòng 4:
==Trước khi thành giáo hoàng==
Giáo hoàng Sixtus IV sinh tại Celle Ligure, gần Savona ngày 21 tháng 7 năm 1414 với tên thật là Francesco della Rovere.
Ông là con của một người buôn dạ khá giả, lúc 9 tuổi, ông được dâng cho tu viện San Francesco của Savone. Ông tuyên khấn ở đó.
 
Sau đó Rovere học thần học tại Chieri, Bologne và Pavia. Sau khi đậu bằng cử nhân, ông được bổ nhiệm làm giáo sư thần học, luận lý học và triết học ở đại học Pađua. Sau đó ông trở thành nhà thuyết giảng và lần lượt leo lên các phẩm trật của dòng Phanxicô cho đến khi trở thành bề trên tổng quyền vào năm 1464.
 
Năm 1467, ông được nâng lên phẩm tước hồng y.
Dòng 12:
Năm 1471, khi Giáo hoàng Paul II qua đời, mật tuyển viện được triểu tập và sau bốn ngày hội đồng hồng y đã bầu ông lên làm Giáo hoàng ngày 9 tháng 8 năm 1471. Ông là một chính trị gia xuất sắc, một nhà thần học và là một vị bảo trợ nổi tiếng của các loại hình nghệ thuật và khoa học đời. Nhưng ông bị coi là một người hung bạo và “đầu óc rỗng”.
===Chống lại quân Thổ===
Những cố gắng đầu tiên của Giáo hoàng Sixtus IV dành cho việc chiến tranh chống lại quân Thổ. Ông cũng hô hào binh thành giá đánh Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng Tây phương làm ngơ.
 
Năm 1481, vua [[Mehmed II]] qua đời, một cuộc tranh giành ngôi báu làm suy giảm lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Phương được tạm yên. Ông cũng không thành công trong việc kết hợp lại các Giáo hội chính thống và Công giáo Nga bằng cuộc hôn nhân của Zoé Paléologne và Ivan III.
Dòng 24:
 
===Gia đình trị===
Ông nhiễm nặng tinh thần gia đình trị đến độ ông can dự vào âm mưu của Pazzi chống lại Medicis ở Florence, do sự điều khiển của cháu ông là Hồng Y Riario. Dưới sự bảo vệ của cháu mình, ông hành động chống lại dân Florence. Vụ việc kết thúc bằng một hiệp ước hoà bình được đánh dấu qua việc Giáo Hoàng cho xây dựng Đền Thờ Santa Maria della Pace ở Rôma.
 
Ông cũng là vị giáo hoàng đã phê chuẩn Tôn giáo Pháp đình thiết lập tại Tây-ban-nha; ký sắc lệnh tuyên bố rằng tiền bạc sẽ giải cứu linh hồn khỏi nơi luyện tội; dùng chức vị Giáo hoàng để làm giàu cho mình và bà con mình; phong cho 8 người cháu làm Hồng y Giáo chủ trong lúc một số người ấy còn là thiếu nhi, trong đó có Giuliano Rovere (tức Giuliô II sau này) và Pietro Riario là những người sống xa hoa, thế tục; còn về giàu có, xa hoa, thì chẳng bao lâu ông và bà con ông hơn cả các quí tộc La mã thời xưa. Tệ lạm đó gây ra nhiều bất mãn, ghen tỵ, oán thù đi đến chỗ đổ máu. Khi ông qua đời, một tình trạng hỗn loạn thật sự đã diễn ra ở Roma.
 
===Năm thánh 1470===
Theo qui định của Ðức Thánh Cha Phaolô II (1461-1471) trong một Tông sắc ban hành vào năm 1470, từ này về sau, Năm Thánh sẽ được tổ chức cứ mỗi 25 năm và qui định này vẫn còn duy trì cho đến ngày nay đối với các Năm Thánh lệ thường. Năm Thánh thứ 6 vào năm 1475 như thế được tổ chức dưới triều Ðức Sixtô IV (1471-1484) và kéo dài cho tới lễ Phục Sinh năm 1476. Ðể mọi giáo hữu khắp nơi có thể qui tụ về Rôma dự Năm Thánh 1475, Ðức Sixtô IV đã đình chỉ ban hành ơn toàn xá ở những nơi khác trên thế giới trong suốt thời kỳ này.
 
Sử dụng kỹ thuật in vừa được Johann Guttenberg phát minh, Giáo hoàng đã cho in Sắc chỉ Năm Thánh, tập chỉ dẫn khách hành hương và kinh nguyện ở những nhà thờ. Cũng kể từ năm 1475, Năm Thánh được tổ chức cứ mỗi 25 năm. Ngoài ra, từ năm này trở đi, từ ngữ Năm Thánh (Holy Year) cũng được chính thức sử dụng cho đến ngày nay; trước đây những năm như thế gọi là Năm Hồng Ân hay Toàn Xá (Jubilee).
Dòng 45:
* Các vị giáo hoàng của giáo hội toàn cầu, hội đồng giám mục Việt Nam [http://v3.hdgmvietnam.org/Default.aspx?tabid=66&error=Object+reference+not+set+to+an+instance+of+an+object.]
* Tóm lược tiểu sử các Đức Giáo Hoàng, Đà Nẵng 2003,Jos. TVT chuyển ngữ từ Tiếng Anh.
* Lịch sử đạo Thiên Chúa, Jean – Baptiste Duroselle và Jean – Marie Mayeur. Bộ sách giới thiệu những kiến thức thời đại: Que sais-je? Tôi biết gì? Người dịch: Trần Chí Đạo, Nhà xuất bản Thế giới tháng 4/2004.
* Cuộc lữ hành đức tin, lịch sử Giáo hội Công giáo, Lm Phanxicô X. Ðào Trung Hiệu OP Hiệu đính tháng 9/2006, Đa Minh Việt Nam, Tỉnh dòng Nữ vương các thánh tử đạo.
* Lịch sử Giáo hội Công Giáo, Linh mục O.P Bùi Đức Sinh – giáo sư sử học, Tập I và II, Nhà xuất bản Chân Lý, Giấy phép số: 2386 BTT/PHNT Sài Gòn ngày 28 tháng 7 năm 1972.