Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phổ (quốc gia)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Lịch sử thời xưa: sửa chính tả, replaced: xoay sở → xoay xở using AWB
n clean up, replaced: → (116), , → , , : → : (7) using AWB
Dòng 4:
|conventional_long_name = Phổ
|common_name = Phổ
|continent = Châu Âu
|region = Trung Âu, [[Đức]]
|country = Phổ
|era = Từ thời Cận đại đến Đương đại
|status =
|status_text =
|empire =
|government_type = [[Chế độ quân chủ|Quân chủ]], [[Dân chủ]]
|year_start = 1525
|year_end = 1947
|date_pre =
|event_start = [[Công quốc Phổ]]
|date_start = 10 tháng 4
|event_end = [[Hội đồng Quản lý Đồng minh|Giải thể]] (''[[de jure|danh nghĩa]]'')
|date_end = 25 tháng 2
|event1 = [[Brandenburg-Phổ|Liên minh với Brandenburg]]
|date_event1 = 27 tháng 8 năm 1618
|event2 = [[Vương quốc Phổ]]
|date_event2 = 18 tháng 1 năm 1701
|event3 = [[Lãnh thổ Tự do Phổ]]
|date_event3 = 9 tháng 11 năm 1918
|event4 = Giải thể (''[[de facto|thực tế]]'')
|date_event4 = 30 tháng 1 năm 1934
|event_post =
|date_post =
<!---Don't use flag navigation for this entry: it is too complicated. This is better covered by the individual Prussian entries--->
|today = [[Đức]], [[Ba Lan]],<br />[[Kaliningrad (tỉnh)|Nga]], [[Vùng Klaipėda|Lithuania]],<br />[[Hạt Nam Jutland|Đan Mạch]], [[Eupen-Malmedy|Bỉ]],<br />[[Vùng Hlučín|Cộng hòa Séc]], [[Hà Lan]], [[Bang Neuchâtel|Thụy Sĩ]]
|image_flag = Flag of Prussia 1892-1918.svg
|flag =
|flag_type = Quốc kỳ <small>(1892–1918)</small>
|image_coat = Wappen Deutsches Reich - Königreich Preussen (Grosses).png
|symbol =
|symbol_type = Quốc huy <small>(1701–1918)</small>
|image_map = Map-DR-Prussia.svg
|image_map_caption = Lãnh thổ Phổ (màu xanh lam) ở đỉnh cao, là quốc gia đứng đầu [[Đế quốc Đức|Đế chế Đức]]
|capital = [[Kaliningrad|Königsberg]], sau là [[Berlin]]
|national_motto = ''[[Suum cuique]]''{{spaces|2}}<small>([[Latinh|Latin]])</small><br />"To each his own"
|national_anthem =
|common_languages = [[Tiếng Đức]] (chính thức)
|religion = [[Tin Lành]], [[Giáo hội Công giáo Rôma]]
|currency =
|title_leader = [[Công tước Phổ|Công tước]]{{smallsup|1}}
|leader1 = [[Albert I, Công tước Phổ|Albert I]] (đầu)
|year_leader1 = 1525–1568
|leader2 = [[Friedrich I của Phổ|Frederick III]] (cuối)
|year_leader2 = 1688–1701
|title_representative = [[Vua Phổ|Vua]]{{smallsup|1}}
|representative1 = [[Friedrich I của Phổ|Frederick I]] (đầu)
|year_representative1 = 1701–1713
|representative2 = [[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II]] (cuối)
|year_representative2 = 1888–1918
|title_deputy = [[Thủ tướng Phổ|Thủ tướng]]{{smallsup|1, 2}}
|deputy1 = [[Paul Hirsch (chính trị gia)|Paul Hirsch]] (đầu)
|year_deputy1 = 1918–1920
|deputy2 = [[Hermann Göring]] (cuối)
|year_deputy2 = 1933–1945
|legislature = <!--- Name of legislature ------>
|house1 = <!--- Name of first chamber ---->
|type_house1 = <!--- Default: "Upper house"---->
|house2 = <!--- Name of second chamber --->
|type_house2 = <!--- Default: "Lower house"---->
|<!-----Area and population of a given year----->
|stat_year1 = 1939
|stat_area1 = 297007
|stat_pop1 = 41915040
|stat_year2 =
|stat_area2 =
|stat_pop2 =
|footnotes = <sup>1</sup> Chỉ nêu những nhà lãnh đạo đầu tiên và cuối cùng của mỗi thời kỳ.<br /><sup>2</sup> Chức vụ ''Thủ tướng chính phủ'' (''Ministerpräsident'') được đặt ra vào năm 1792 khi Phổ là một Vương quốc; các Thủ tướng ở đây là người đứng đầu nước cộng hòa Phổ.
}}
 
'''Phổ''' ([[tiếng Đức]]: Preußen; [[latinh|tiếng Latin]]: ''Borussia'', ''Prutenia''; [[tiếng Litva]]: ''Prūsija''; [[tiếng Ba Lan]]: ''Prusy''; [[tiếng Phổ Lỗ Sĩ cổ]]: ''Prūsa'') là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ [[Brandenburg]], một lãnh thổ trong suốt nhiều thế kỉ đã ảnh có hưởng lớn lên lịch sử nước [[Đức]] và châu Âu, đóng vai trò quan trọng trong lịch sử thế giới vào [[thời kỳ cận đại]].<ref name="CClark777">Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 777</ref> [[Thủ đô|Kinh đô]] cuối cùng của vương quốc Phổ là [[Berlin]].
 
Nước Phổ phát triển rực rỡ nhất trong [[thế kỷ 18|thế kỉ 18]] và [[thế kỷ 19]]. Trong suốt thế kỉ thứ 18, dưới triều đại của ông vua nhà binh [[Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại Đế]] ([[1740]] – [[1786]]) - được xem là vị thống soái kiệt xuất nhất trong thời đại của ông,<ref>SYLCANUS URBAN, ''THE GENTLEMAN'S MAGAZINE: AND HISTORICAL CHRONICLE. VOLUME LX'', trang 765</ref><ref name="invincibleg"/> Vương quốc Phổ vươn lên đứng trong hàng ngũ các [[cường quốc]] hàng đầu châu Âu, là một cường quốc của thế giới. Trong suốt những năm tháng trị quốc, vua Friedrich II Đại Đế rất năng nổ.<ref name="georegre273"/> Nhờ tài năng lãnh đạo xuất sắc và những chiến thuật siêu việt, ông đã phát binh đánh bại được tất cả các quốc gia trên toàn lục địa châu Âu.<ref name="Britannica">Encyclopaedia Britannica, inc, ''The Britannica book of the war'', trang 31</ref> Cuộc [[chiến tranh Bảy năm]] (1756 - 1763) đã chứng tỏ [[chủ nghĩa anh hùng]] và sự huy hoàng của nước Phổ, cùng với thiên tài quân sự của ông vua nhà binh Friedrich II Đại Đế, qua việc ông chống lại những kẻ thù hùng mạnh như [[Đế quốc Nga]], [[Đế quốc Áo]] và [[Pháp]], mà giữ vững Vương quốc Phổ.<ref name="sevenyears">[http://www.heritage-history.com/www/heritage.php?Dir=wars&FileName=wars_sevenyears.php Seven Years War]</ref><ref>Kha Xuân Kiều, Hà Nhân Học, ''Những nhân vật quân sự nổi tiếng thế giới'', trang 325</ref><ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 118</ref><ref>Charles Booth Brackenbury, ''Frederick the Great'', G. P. Putnam, trang 256</ref> Sức mạnh của nước Phổ được ông gia tăng rất lớn, và chiếm được đất từ nước Ba Lan và xứ [[Franconia]].<ref name="dentaste">David W. Del Testa, Florence Lemoine, John Strickland, ''Government leaders, military rulers, and political activists'', trang 64</ref>
 
Cuối triều vua Friedrich II Đại Đế, nước Phổ và thiết lập "[[Liên minh các Vương hầu]]" với các tiểu quốc của người Đức.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 198</ref> Nếu [[triều đại]] của ông gắn liền với [[triết học Khai sáng]] thì nước Phổ trong những năm tháng sau này gắn liền với những cuộc chinh phạt tàn khốc của Hoàng đế Pháp là [[Napoléon Bonaparte]] và những chính sách "Sắt và Máu" của Thủ tướng [[Otto von Bismarck]].<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947''</ref> Trong suốt thế kỉ 19, Quân đội Phổ đánh tan tác quân Pháp của Napoléon,<ref name="CMClark371">Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 371</ref> Triều đình Phổ đánh bại được phong trào tự do, xây dựng một Nhà nước chuyên chế mới,<ref name="Hodge573"/> và Thủ tướng [[Otto von Bismarck]] theo đuổi mục tiêu thống nhất nước Đức nhưng không bao gồm [[Đế quốc Áo]], gọi là [[Giải pháp nước Đức nhỏ]]. Vương quốc Phổ thống trị miền bắc nước Đức về mặt chính trị, kinh tế, và dân số, và là trụ cột của [[Liên bang Bắc Đức|Liên minh Bắc Đức]] thành lập vào năm [[1867]], trở thành [[Đế quốc Đức|Đế chế Đức]] (''Deutsches Reich'') vào năm [[1871]]. Trong thế kỷ XIX, quá trình công nghiệp hóa đất nước cũng diễn ra nhanh chóng.<ref name="Hodge573">Carl Cavanagh Hodge, ''Encyclopedia of the Age of Imperialism, 1800-1914'', Tập 2, trang 573</ref>
 
Với sự kết thúc của triều đại [[Hohenzollern]] ở Đức theo sau [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]], Phổ trở thành một phần của [[Cộng hòa Weimar]] vào năm [[1919]] với tư cách một quốc gia tự do. Nước Phổ trên thực tế bị chính quyền Quốc xã hủy bỏ vào năm 1934 và chính thức bị phe [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] khai tử sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] năm 1947.
Dòng 89:
Danh xưng "Phổ" trong [[tiếng Việt]] là giản xưng của dịch danh [[Chữ Hán|Trung văn]] của quốc hiệu nước Phổ là '''Phổ Lỗ Tây''' (普魯西), còn dịch là '''Phổ Lỗ Sĩ''' (普魯士).
 
Quốc hiệu nước Phổ bắt nguồn từ tên gọi của [[người Phổ Lỗ Sĩ cổ]], một [[tộc quần]] [[người Balt]] có liên quan đến [[người Litva]] và [[người Latvia]]; người Phổ Lỗ Sĩ cổ bị các [[hiệp sĩ Tơ-tông]], (tiếng Đức: ''Deutscher Orden'', tiếng Anh: ''Teutonic Knights''), chinh phục rồi dần bị [[đồng hóa]].
 
== Biểu trưng ==
Dòng 115:
Vào năm 1226 [[Công tước]] [[Konrad I của Masovia]] mời các [[Hiệp sĩ Teuton]], một [[dòng tu chiến binh]] Đức, đại bản doanh đặt tại thành phố Acre ở Vương quốc Jerusalem, chinh phạt các [[Phổ cổ|bộ lạc Phổ]] trên vùng biên giới lãnh thổ của ông. Sau sáu mươi năm chiến tranh với người Phổ, họ đã dựng nên một quốc gia độc lập mà về sau nắm luôn quyền điều khiển Phổ. Sau khi dòng Hiệp sĩ Thanh gươm của Livonia gia nhập dòng Hiệp sĩ Teuton năm 1237, họ kiểm soát luôn vùng Livonia, bây giờ là [[Estonia]], [[Latvia]] và tây [[Litva]].
 
Các Hiệp sĩ này chỉ chịu ở dưới quyền [[Giáo hoàng]] Rôma và Hoàng đế Đức. Ban đầu, họ liên hệ mật thiết với Hoàng gia Ba Lan, nhưng về sau, mối quan hệ này bị đổ vỡ khi họ đánh chiếm các vùng đất mà Ba Lan tuyên bố sở hữu là Pomerelia và Danzig (Gdańsk), một thành phố với cư dân chủ yếu là người Đức. Dòng tu Hiệp sĩ Teuton cuối cùng bị đánh bại trong trận chiến Grunwald năm 1410 bởi Liên minh Ba Lan và Litva, thành lập thông qua Hiệp ước liên minh Krewo.
 
Trong cuộc "[[chiến tranh Mười ba năm]]" (1454-1466), Liên minh Phổ, bao gồm các thành phố đồng minh Hasen ở tây Phổ nổi dậy chống lại dòng Hiệp sĩ Teuton và cầu viện vua Ba Lan. Các Hiệp sĩ Teuton buộc phải chấp nhận thần phục vua [[Kazimierz IV Jagiellonczyk]] theo Hòa ước Thorn, đồng thời mất đi vùng tây Phổ cho Ba Lan.
Dòng 128:
 
[[Tập tin:ac.prussiamap2.gif|nhỏ|300px|phải|Sự phát triển của Brandenburg-Prussia, 1600-1795]]
Trong suốt cuộc [[Chiến tranh Ba mươi năm|Chiến tranh ba mươi năm]], những lãnh địa rời rạc của nhà Hohenzollern bị nhiều đoàn quân viễn chinh khác nhau giày xéo, đặc biệt là quân của [[Đế quốc Thụy Điển|Thụy Điển]]. Bá tước [[George William, Bá tước của Brandenburg|George William]] ([[1619]]-[[1640]]) không có năng lực quân sự, phải chạy trốn khỏi Berlin sang Königsberg, kinh đô truyền thống của Đại công quốc Phổ vào năm [[1637]]. Người kế vị ông ta, [[Friedrich Wilhelm I xứ Brandenburg|Friedrich Wilhelm I]] (1640-[[1688]]), tiến hành cải cách quân đội để bảo vệ lãnh thổ. Năm [[1641]], Friedrich Wilhelm I sang [[Warszawa]] triều kiến vua Ba Lan là [[Władysław IV Vasa]] để tỏ lòng trung thành của mình, do lãnh địa Phổ của ông vẫn được coi là đất phong của triều đình Ba Lan cho ông. uy nhiên về sau, lợi dụng tình trạng đối đầu gay go giữa Ba Lan và [[Thụy Điển]] trong các cuộc [[Chiến tranh Bắc Âu]], cũng như mối quan hệ thân thiện của ông với nước [[Nga]] trong một loạt các cuộc chiến tranh Nga-Ba Lan, Friedrich Wilhelm đã có thể xoay xở để thoát khỏi nghĩa vụ chư hầu với vua Ba Lan. Ông giành được quyền tự chủ cho Phổ trong [[Hòa ước Wehlau]] vào năm [[1657]]. Ông xây dựng một lực lượng [[Quân đội thường trực]], với 30.000 quân tinh nhuệ.<ref name="DuffyXVI"/> Đến cả vị anh hùng của Stalin là Nga hoàng [[Pyotr I của Nga|Pyotr Đại Đế]] cũng phải thán phục xứ Phổ của vị Tuyển hầu tước vĩ đại.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 674</ref>
 
Vào năm [[1675]], ông đánh tan tác quân [[Thụy Điển]] trong [[trận Fehrbellin]], qua đó ông trở thành vị "Tuyển hầu tước vĩ đại".<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 47</ref> Với chiến công hiển hách của ông, dân tộc Đức quay trở lại thời kỳ hùng mạnh.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 657</ref> Quân đội Phổ đã giành chiến thắng trong chiến dịch chống Thụy Điển, và chiến thắng tại Fehrbellin trở thành một ký ức cao đẹp của dân tộc Phổ - Brandenburg, về sự phát triển của truyền thống quân sự của họ. Lực lượng Quân sự độc lập đã đặt nền tảng cho Vương triều Hohenzollern đưa nước Phổ lên hàng liệt cường, chứ không phải là những Liên minh đã đưa xứ Phổ đến tình hình tồi tệ như trong cuộc Chiến tranh Ba mươi năm.<ref name="DuffyXVI"/> "Tuyển hầu tước vĩ đại" cũng truyền lệnh cho 20.000 tín đồ Kháng Cách Pháp đến tị nạn trên đất Phổ.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 179</ref> Ban đầu ông dựa theo hình mẫu của người [[Hà Lan]] mà xây dựng Quân đội, nhưng từ sau [[1685]], những người Pháp tị nạn đã truyền bá vào xứ Phổ cách rèn luyện quân sự mới nhất của nước Pháp.<ref name="DuffyXVI"/> Tuy ông bị mất một số đất đai mà ông chinh phạt được, ông vẫn luôn được biết bao người châu Âu nể trọng; và, vào năm 1757, khi vị vua kiên quyết Friedrich II Đại Đế tuyệt vọng vì bị nhiều nước vây hãm, Voltaire đã lấy chuyện này ra để khuyên nhà vua hồi phục và đóng vai trò quan trọng trên chính trường châu Âu. Với tư tưởng sắt đá của mình, ông đã nghe theo Voltaire...<ref name="Ritter114"/> Vị Tuyển hầu tước vĩ đại cũng gửi một đạo quân đến giúp Hoàng đế Áo là [[Leopold I (đế quốc La Mã Thần thánh)|Leopold I]] đánh đuổi quân [[Đế quốc Ottoman|Thổ Ottoman]] ra khỏi kinh thành [[Viên]].<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 51</ref>
Dòng 134:
== Lịch sử nước Phổ (1701 - 1786) ==
[[Tập tin:Friedrich I von Preussen 1701.jpeg|150px|phải|nhỏ|Vua Friedrich I của Phổ]]
Vào năm [[1701]] con trai của Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu Friedrich III tự xưng là Vua [[Friedrich I của Phổ]]. Để không xúc phạm đến hoàng đế Đức là [[Leopold I (đế quốc La Mã Thần thánh)|Leopold I]], vì phần lớn lãnh thổ thuộc Phổ nằm trong Đế quốc La Mã thần thánh dân tộc Đức, Friedrich chỉ được phép xưng là "[[Vua Phổ|Đức Vua ở Phổ]]", chứ không phải "Đức Vua của Phổ". Dù vậy, Brandenburg vẫn được hiểu là một phần vủa vương quốc Phổ, hơn là một lãnh địa riêng biệt. Như thế là ông xưng làm Quốc vương đúng 170 năm trước khi vua [[Wilhelm I của Đức|Wilhelm I]] xưng làm Hoàng đế nước Đức vào năm [[1871]].<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 552</ref> Nước Phổ trở nên thịnh vượng dưới thời vua Friedrich I, ông sử dụng cả ngân sách Hoàng gia để bảo trợ nghệ thuật nước nhà. Không những là một ông vua xa hoa, ông còn gầy dựng một lực lượng Quân đội Phổ bao gồm 40.000 binh sĩ, dù phải đối mặt với những khó khăn do những dịch bệnh và chính sự ăn chơi của ông. Ông cho quân tham chiến với liên quân chống Pháp trong cuộc [[Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha]], và cuộc chiến này có tầm quan trọng quyết định đối với sự trỗi dậy của truyền thống quân sự của dân tộc Phổ. Không những Quân đội Phổ có được danh tiếng trên trận tiền, những tướng tá Phổ như [[Vương công Leopold I xứ Anhalt-Dessau]] (còn gọi là "Ông già Dessauer", một công thần dưới các triều vua Friedrich Wilhelm I và Friedrich II Đại Đế sau này<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 318</ref>) đã học hỏi được những bí quyết giúp danh tướng [[John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất]] đập tan tác Quân đội của vua [[Louis XIV của Pháp|Louis XVI]].<ref name="DuffyXVI">Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang XVI</ref> Từ năm [[1740]] cho đến năm [[1797]], mọi Quân vương nước Phổ đều nhận thức rõ việc mở mang bờ cõi. Trong các di chúc chính trị của mình, vị Tuyển hầu tước vĩ đại cùng với các vua Friedrich I, Friedrich Wihelm I và Friedrich II Đại Đế đều cho rằng đang tiến hành một kế hoạch đồ sộ mang tính lịch sử, và qua đó, những vị vua kế tục phải tiếp nối sự nghiệp đang dang dở của vua cha.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 101</ref>
 
Vào năm 1713, ông qua đời và Triều đình Phổ không còn xa hoa như xưa.<ref name="DuffyXVI"/> Ông được kế vị bởi người con trai, vua [[Friedrich Wilhelm I của Phổ|Friedrich Wilhelm I]] (1713-1740), một "ông vua nhà binh" khắc khổ, không màng đến nghệ thuật, sống tằn tiện và thực tế. Ông thuê mướn những [[Goliath]] của các nước khác, một [[Quân đội thường trực]] khét tiếng hùng mạnh ở châu Âu, một hệ thống hành chính Phổ rất được ca ngợi và cải cách kinh tế. Lúc ông lên nối ngôi báu, lực lượng [[Quân đội Phổ]] chỉ có 40.000 binh sĩ, nhưng sau khi ông qua đời vào năm 1740, họ có đến 80.000 quân tinh nhuệ. Ông chi phí tốn kém cho binh cách, vì nhận thấy tầm quan trọng của một Quân đội hùng mạnh đối với đất nước.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 95</ref> Ngay từ năm [[1709]], khi còn ở ngôi [[Thái tử|Hoàng thái tử]], ông tham chiến cùng Quân đội Phổ trong cuộc [[Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha]], đánh [[trận Malplaquet]].<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 97</ref> Là vị cha để của bộ máy hành chính Nhà nước Phổ, ông được xem là vị vua vĩ đại nhất của nước Phổ về mặt đối nội.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 85</ref> Dù vậy, Quân đội Phổ chỉ xung trận trong một thời gian ngắn trong [[Đại chiến Bắc Âu]], chống quân Thụy Điển. Với tinh thần kỷ luật khắc khe, nhà vua thường mặc chiến bào thay vì những bộ long bào xa xỉ, và đặc điểm này của ông sẽ còn có ở con trai ông là vị vua vinh quang [[Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại Đế]] và nhiều vị vua kế tục, cho thấy khi nền quân chủ Phổ của Vương triều Hohenzollern sụp đổ sau cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Chiến tranh thế giới lần thứ nhất]].<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 84</ref>
 
[[Tập tin:Friedrich Wilhelm I 1713.jpg|trái|nhỏ|150px|Quốc vương Friedrich Wilhelm I]]
 
Khác với vua Louis XIV của Pháp, ông và vua con Friedrich II Đại Đế đều là những ông vua nhà binh.<ref name="ReferenceA">Gerhard Ritter, ''Frederick the Great : a historical profile'', trang 10</ref> Vua Friedrich Wilhelm I định cư trên 2 vạn người tị nạn [[Tin Lành|Tân giáo]] từ vùng [[Salzburg]] vào các vùng đất thưa dân ở phía đông Phổ, mở mang nó đến tận bờ tây sông Memel và các vùng khác. Ông cũng giành được vùng đất Tây Pomerania cho đến tận sông [[Peene]] từ tay [[Thụy Điển]] vào năm 1720. Tuy Quốc vương Friedrich Wilhelm I chỉ xưng làm "Đức Vua ở Phổ", dưới triều đại của ông, người ta thường gọi ông là "Đức Vua của Phổ" hơn hẳn Vương hiệu chính thức của ông.<ref>Carlton Joseph Huntley Hayes, ''A political and social history of modern Europe'', Tập 1, trang 37</ref> Như vua Phổ Friedrich II Đại Đế đã nói sau này, Vương quốc Phổ của ông đã trở thành "xứ [[Sparta]] của phương Bắc".<ref>Richard L. Gawthrop, ''Pietism and the making of eighteenth-century Prussia'', trang 1</ref> Vào thập niên 1730, [[Chiến tranh Kế vị Ba Lan]] bùng nổ giữa liên quân Nga - Áo và Pháp, Quốc vương Friedrich Wilhelm I phái một đạo quân do [[Thái tử|Hoàng thái tử]] Friedrich đến liên minh với quân Áo, và cuộc chiến tranh kết thúc với chiến bại của quân Pháp.<ref name="aGerhardr187"/> Và, sau khi vua Friedrich Wilhelm qua đời, một ''"nhân vật kiệt xuất"'' lên ngai vàng trên đất Đức vào năm 1740 (''"que le grand groppe au ryn sera getté"'') - đúng như nhà tiên tri [[Nostradamus]] người Pháp đã tiên đoán, đó là một vị danh tướng lớn trong lịch sử - vua [[Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại Đế]], được coi là bậc thầy của những chiến thuật và chiến lược lừng danh.<ref name="invincibleg">Philip J. Haythornthwaite, ''Invincible generals: Gustavus Adolphus, Marlborough, Frederick the Great, George Washington, Wellington''</ref><ref>Mario Reading, ''The Complete Prophecies of Nostradamus'', trang 464</ref> Khác với vua cha Friedrich Wilhelm I, sau này ông không để yên cho nước Nga và Áo được tự do can thiệp vào tình hình Ba Lan, sau khi ông đưa nước Phổ trở thành một liệt cường lớn mạnh chứ không phải là một nước chư hầu của các quốc gia [[phong kiến]] phía Đông.<ref name="aGerhardr187">Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 187</ref>
 
Là một trong những Quân vương ngự trị lâu dài nhất của châu Âu từ thời [[Trung Cổ]] đến thời Napoléon, những chiến tích hiển hách của nhà vua, lòng vô cùng dũng cảm và sáng suốt của ông và việc ông đưa từ "[[thời kỳ Khai sáng]]" vào từ điển [[tiếng Đức]] - đã khiến cho ông được người ta gọi là '''"Friedrich Đại đế"''' - cái nhìn của dân tộc Đức đối với ông giống như dân tộc Nhật Bản với [[Thiên hoàng Minh Trị]] và dân tộc Nga với vua Pyotr Đại Đế vậy.<ref>H. W. Koch, ''A History of Prussia'', các trang 100-102. Trang 161</ref><ref>Tuy nhiên, theo ghi nhận của Paul Kuritz, người ta gọi ông là '''Friedrich Đại đế''' do ông đã phản đối chủ nghĩa quân phiệt của vua cha, tập trung năng lực của mình vào nền văn hoá và nghệ thuật. Xem "The making of theatre history", trang 245</ref><ref>Robert S. Albert, ''Genius and eminence'', trang 84</ref><ref>William Theodore De Bary, ''Sources of East Asian Tradition: The modern period''], trang 482</ref><ref>Baron John Emerich Edward Dalberg Acton Acton, Ernest Alfred Benians, ''The Cambridge modern history'', Tập 6, trang 725</ref><ref>[http://www.heritage-history.com/www/heritage.php?Dir=books&MenuItem=display&author=baldwin&book=people&story=page The King and the Page]</ref> Những chiến thắng huy hoàng của ông cũng khiến ông được tôn vinh, trở thành vị anh hùng của đức tin [[Tin Lành|Kháng Cách]].<ref>C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 182</ref> Khi còn là Thái tử ông chỉ đam mê triết học và nghệ thuật. Tuy nhiên, ông thể hiện nhiều tài năng về chính trị, quân sự và ngoại giao, và vẫn tiếp tục xây dựng và mở rộng lực lượng [[Quân đội Phổ]] hùng cường và kỷ luật, với một lực lượng [[Kỵ binh]] không ai sánh kịp.<ref name="kkhaxuan320">Kha Xuân Kiều, Hà Nhân Học, ''Những nhân vật quân sự nổi tiếng thế giới'', trang 320</ref>
 
Như "[[Amurath]] kế tục [[Amurath]]", ông đã kế vị vua Louis XIV của Pháp ("Louis Mặt Trời") làm vị Bá vương của toàn cõi châu Âu.<ref>A. W. Holland, ''Germany'', trang 221</ref> Trong cuốn sử sách của mình, nhà văn người Anh là [[Edward Gibbon]] có ám chỉ về việc chính vị hiệu của Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã đẩy mạnh sự phát triển cường thịnh của Đế chế Phổ trong câu ''"Một vị Hoàng đế Julianus, một vị [[Ekaterina II của Nga|Nữ hoàng]] [[Semiramis]] sẽ chính vị hiệu ở phương Bắc..."''.<ref>''The Merchants' Magazine and Commercial Review'', Tập 1, trang 103</ref> Trong năm đầu tiên lên ngôi vua, ông thống lĩnh Quân đội Phổ tiến đánh [[Silesia]], vùng đất Hohenzollern tranh chấp với nhà Habsburg cai trị đế quốc Áo. Quân đội Phổ chinh phạt được tỉnh này vô cùng nhanh chống, chở thành hoạt động chính trị quan trọng nhất của vua Friedrich II Đại Đế - đây hoàn toàn là quyết định của ông.<ref name="Clark183">Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 183</ref> Trong hai cuộc [[chiến tranh Silesia]] (1740 - 1745), nhà vua liên tiếp giành thắng lợi trong cuộc chinh phạt giành Silesia từ đế quốc Áo (1742),<ref>Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, ''Baron Von Steuben: American General'', trang 8</ref> sau đó còn bảo vệ tỉnh này với những trận đại thắng tại [[Trận Hohenfriedberg|Hohenfriedberg]], [[Trận Soor|Soor]] hay [[Trận Katholisch-Hennersdorf và Görlitz|Hennersdorf]] (1745) trước quân Áo và quân Sachsen.<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 19</ref> Với chiến thắng lừng lẫy tại Soor, không những Quốc vương Friedrich II Đại Đế có được danh tiếng với tư cách là một vị lãnh tụ quân sự của châu Âu, mà còn trở thành một vị thống soái bất khả chiến bại.<ref name="gerhardritier">[[Gerhard Ritter]], ''Frederick the Great : a historical profile'', trang 92</ref> Với những chiến thắng vang dội tại Hohenfriedberg và Soor với chiến thuật "[[đánh lấn vào sườn]]" của nhà vua, ông đã che khuất những sai lầm của mình bằng tài năng và lòng dũng cảm của ông. Lực lượng [[Kỵ binh]] tinh nhuệ Phổ, do chính ông bỏ công rèn luyện, trở thành lực lượng Kỵ binh hùng mạnh nhất trên lục địa châu Âu, luôn luôn chủ động và táo bạo dưới qưyền những danh tướng kiệt xuất.<ref>C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 115</ref> Nước Phổ trở thành một kình địch hùng mạnh để ngăn cản sự phát triển của nước Áo.<ref name="Radhey Shyam Chaurasia">Radhey Shyam Chaurasia, ''History of Europe'', trang 135</ref> Đánh bại quân Áo và đưa nước Phổ lên làm liệt cường tại Đức và châu Âu, ông đã ngăn ngừa việc Vương quốc Pháp trở thành cường quốc bá chủ trên đất Đức.<ref name="Clark183"/><ref name="gerhardritier"/> Sau đó, ông vẫn tiếp tục quan tâm đến lực lượng [[Quân đội Phổ]], viết sách về nguyên tắc chiến tranh.<ref name="Stanley296"/> Trong cuộc [[Chiến tranh Bảy năm]] (1756 - 1763), ông phải chống lại một liên minh gồm cả Áo, Pháp, Nga, Thụy Điển và Sachsen: ông tỏ ra là một thiên tài xuất chúng.<ref>Society of American Military Engineers, ''The Military engineer'', Tập 23, trang 62</ref> Như Nữ hoàng Áo là Maria Theresia nói với một viên Thống chế vào năm [[1761]], bà quyết định đưa '''Vương triều Brandenburg''' trở lại thành một cường quốc hạng hai trong cuộc chiến tranh này,<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 292</ref> nhưng cuối cùng bà đã thất bại.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 242</ref>
 
[[Tập tin:Kunersdorff.jpg|phải|nhỏ|180px|Quân đội Phổ của vua Friedrich II Đại Đế bị liên quân Nga - Áo đánh bại thảm hại trong [[trận Kunersdorf]] (1759).<ref>Daniel Coit Gilman, ''The New international encyclopaedia'', Tập 18, trang 12</ref>]]
Tuy bị liên quân chống Phổ vây từ nhiều phía, với tinh thần vô cùng quyết chí và dũng cảm, ông đánh bại từng nước một trong liên quân, ông cực kỳ năng động và giữ vững vai trò bá chủ của Phổ ở vùng Trung Đức,<ref name="Ritter116"/> và đến cuối năm 1761, đã mang lại cho liên quân chống Phổ (vốn được thiết lập nhằm xâm chiếm và chia cắt lãnh thổ của nước Phổ) sự khẳng định rằng: chứng nào vị Quân vương kiệt xuất và các vị tướng lĩnh tài ba vẫn còn chiến đấu thì ông không thể nào bị đánh bại.<ref name="navaland"/><ref name="rogero"/><ref name="interiors"/> Quyết không nhượng bộ tỉnh Silesia,<ref>Bruce Adelson, [[Arthur Meier Schlesinger]], ''Baron Von Steuben: American General'', trang 12</ref> ông chủ động ra tay đánh thắng quân Sachsen tại [[Cuộc vây hãm Pirna|Pirna]] (1756), đánh thắng quân Áo tại [[Trận Lobositz|Lobositz]] (1756) và [[Trận Praha (1757)|Praha (1757)]], đánh thắng liên quân Pháp - Áo tại [[Trận Roßbach|Rossbach]] (1757), đánh thắng quân Áo tại [[Trận Leuthen|Leuthen]] (1757) đánh thắng quân Nga tại [[Trận Zorndorf|Zorndorf]] (1758)), đánh thắng liên quân Nga - Áo tại [[Trận Liegnitz (1760)|Liegnitz]], giữ vững được kinh đô [[Berlin]],<ref>C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', các trang 232-233.</ref> đánh thắng quân Áo tại [[Trận Torgau|Torgau]] (1760) - [[Trận Burkesdorf|Burkersdorf]] (1762) và [[Cuộc vây hãm Schweidnitz (Chiến tranh Bảy năm)|Schweidnitz]] vào năm 1762 - năm liên quân chống Phổ kiệt quệ, Quân đội Phổ vẫn chiến đấu anh dũng và kiên cường, do đó giành chiến thắng hoàn toàn.<ref name="sevenyears"/><ref name="Kohlrausch"/><ref>Charles Robert Leslie Fletcher, ''An Introductory History of England: From Charles the II to the Battle of Waterloo'', trang 217</ref><ref>B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 243</ref> Với chiến thắng vang dội của ông tại Rossbach (1757), lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Đức đã đánh thắng Pháp một cách vẻ vang.<ref name="Ritter115">Gerhard Ritter, ''Frederick the Great : a historical profile'', trang 115</ref> Chiến dịch Rossbach - Leuthen trở thành một trong chiến thắng huy hoàng nhất trong lịch sử.<ref>B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 181</ref> Thực chất, ông không phải là không có sai lầm với tư cách là một vị lãnh tụ quân sự, ông chỉ thắng 8 trận trong 16 trận đánh mà ông chinh chiến, nhưng về nhiều mặt, ông có lợi thế hơi các kình địch của ông. Ông phải đơn phương độc mã đi chinh chiến, nhưng việc ông không có đồng minh sát cánh để hội kiến cũng là một lợi thế, và bộ máy chiến tranh của nước Phổ rất đơn giản, do bản thân Quốc vương và quan Thượng thư Bộ Ngoại giao (có hiệu lực) chính là Tổng tư lệnh Quân đội Phổ trên chiến trường. Dưới triều đại của vị vua tài năng, dai sức và quyết đoán như thế, Quân đội Phổ không bao giờ phải tiến hành một cuộc tranh cãi phức tạp, như ở nước Áo dưới triều Habsburg.<ref name="Clark204"/> Em trai ông là Hoàng tử [[Friedrich Heinrich Ludwig]] cũng đánh tan tác quân Áo trong [[trận Freiberg]] vào năm 1762, ít lâu trước khi Nữ hoàng Áo là [[Maria Theresia của Áo|Maria Theresia]] giảng hoà.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 241</ref> Nhiều bạn hữu của ông đã hy sinh, làm có những lúc ông đau buồn, nhưng sau đó, vị vua kiên quyết đã hồi phục.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 111</ref> Giữa cuộc chiến, có lúc thất bại thảm hại, nhưng ông - cũng như sau những chiến thắng<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 158</ref> - vẫn bình tĩnh và giữ thế chủ động, dẫn tới những chiến thắng oanh liệt trước những đội quân đông đảo hơn sau này, làm đối phương phải hoảng sợ.<ref>C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 181</ref><ref>C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 230</ref> Một ví dụ cho thấy rõ tài năng của ông trong việc hồi phục sau những chiến bại, giữ cái đầu lạnh và giáng những đòn đau khủng khiếp vào đối phương qua [[trận Hochkirch]] (1758): sau thất bại thảm hại, thậm chí con chiến mã của ông bị trúng đạn, nhà vua rút quân về chỗ an toàn, khiến cho đối phương không thể nào truy kích.<ref name="Clark204"/> Cuối cùng, khi cuộc chiến tranh kết thúc, vị Quân vương bất khả chiến bại vẫn thống lĩnh ba quân trên các đỉnh núi tại tỉnh Silesia và tỉnh Sachsen, trong khi liên quân chống Phổ phải thất bại. Theo nhận định của [[Theodore Ayrauth Dodge]], với tư cách là một chiến binh, ông thể hiện rõ ràng: ông vĩ đại hơn vị Hoàng đế lừng danh Napoléon trong thời gian khó khăn.<ref>Theodore Ayrault Dodge, ''Great Captains'', trang 176</ref> Vị vua quyết đoán và lực lượng Quân đội Phổ hùng cường còn thể hiện sự tàn bạo ác liệt và lạnh lùng qua các cuộc vây hãm Pirna (1756) và [[Dresden]] (1760).<ref>C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 219</ref><ref>C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', trang 130</ref> Chính sách giảm giá, cũng như cuộc cướp bóc tàn nhẫn vào xứ Sachsen và xứ [[Mecklenburg]] cũng giúp vị vua kiệt xuất Friedrich II Đại Đế giành được thắng lợi.<ref name="GerhardR125">Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 125</ref>
 
Chiến thắng của ông tại Leuthen (1757) là một trận đánh kinh điển của chiến thuật "[[đánh lấn vào sườn]]" của ông.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 202</ref> Thậm chí ông còn đánh vào lãnh thổ Áo vào năm 1758 nhưng không thành công, và tiến hành một cuộc rút quân vô cùng hiển hách.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 161</ref> Nước [[Anh]] và một số tiểu quốc Đức liên minh với nước Phổ, đánh Pháp và giúp họ đẩy lui quân Pháp ra khỏi đất nước.<ref name="Schlesinger13">Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, ''Baron Von Steuben: American General'', trang 13</ref> Kể từ sau thất bại thê thảm tại Rossbach thì quân Pháp chẳng bao giờ dám đối đầu với quân tinh nhuệ Phổ do nhà vua thân chinh thống lĩnh nữa, thay vì đó họ chuyển sau mặt trận phía Tây và luôn luôn bị đạo quân Phổ của [[Vương công Ferdinand xứ Brunswick]] đánh tan tác.<ref name="Ritter116">Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 116</ref><ref name="Ritter115"/> Nhưng Chính phủ Anh xé bỏ liên minh với ông vào các năm 1761-1762, song cùng lúc đó liên minh chống Phổ cũng tan rã, mang lại thắng lợi cho ông.<ref name="GerhardR125"/><ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 186</ref> Thân chinh thống lĩnh một lực lượng Quân đội hùng hậu,<ref name="Clark204">Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 204</ref> ông thực hiện xuất sắc nhiệm vụ hết sức nặng nề của mình, và lòng dũng cảm, tính trung kiên và tài năng của ông cuối cùng đã đem lại vinh dự cho ông; trong khi đó liên quân chống Phổ đều kiệt quệ cả: sau bảy năm chinh chiến và giữ vững đất nước trước sự tấn công ba cường quốc quân sự Nga, Áo và Pháp, [[Hiệp định Hubertusburg]] được ký kết vào năm 1763 với việc nước Áo phải chịu mất tỉnh Silesia, giữ vững nền hòa bình,<ref name="interiors">John S. D. Eisenhower, ''Bitter Woods'', trang 21</ref> và giờ đây nước Phổ hoàn toàn là một quốc gia vĩ đại, mang lại chiến bại thảm hại cho liên quân chống Phổ, phá vỡ thế bá chủ của Pháp và Áo ở châu Âu và Đức.<ref name="Radhey Shyam Chaurasia"/><ref name="navaland">''Illustrated Naval and Military Magazine: A monthly journal devoted to all subjects connected with Her Majesty's land and sea forces'', Tập 2, trang 271</ref><ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 128</ref> Với cuộc chiến tranh này, Quốc vương Friedrich II Đại Đế, tức Fredericus Rex trở thành một huyền thoại, do ông đã chiến đấu với một liên quân của các nước châu Âu.<ref>Erich Meissner, ''German in Peril'', trang 22</ref> Với cuộc Chiến tranh Bảy năm, Vương quốc Phổ không những trở thành một cường quốc tiêu biểu của châu Âu, lại còn trở thành một quốc gia hùng mạnh, đóng vai trò thống trị ở miền Bắc Đức và Đế quốc La Mã Thần thánh.<ref name="sevenyears"/><ref name="dentaste"/><ref name="rogero">Roger Osborne, ''Civilization: a new history of the Western world'', trang 252</ref> Cùng với Cuộc chiến tranh Kế vị Áo, cuộc Chiến tranh Bảy năm đã đưa nước Phổ trở thành một liệt cường quân sự hùng mạnh nhất trên toàn cõi châu Âu.<ref name="thecolumbia">''THE COLUMBIA VIKING DESK ENCYCLOPEDIA'', trang 383</ref> Vào năm 1763, Quân đội Phổ có 103.000 binh sĩ là người Phổ, 37.000 binh sĩ là người ngoại quốc.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 134</ref> Trong văn chương, vị vua - anh hùng, thiên tài quân sự kiệt xuất Friedrich II Đại Đế thường được ví von với những anh hùng [[Wotan]] hay [[Arminius|Hermann]] của người [[Teuton]], và cả nhà chinh phạt vĩ đại [[Cyrus Đại đế|Cyrus Đại Đế]] của [[Đế quốc Ba Tư]].<ref name="vanhoamanh"/><ref name="vanhoaau"/><ref>Alex Natan, Brian Keith-Smith, ''German men of letters: Literary essays'', trang 99</ref>
Dòng 157:
[[Tập tin:Bataille de Zorndorf.jpg|trái|nhỏ|180px|Quân đội Phổ của vua Friedrich II Đại Đế đánh cho quân Nga thất bại thảm hại trong [[trận Zorndorf]] (1758). Cũng như [[trận Roßbach|chiến thắng huy hoàng tại Rossbach]] (1757), Quân đội Phổ giành chiến thắng oanh liệt tại Zorndorf nhờ vào lực lượng Kỵ binh tinh nhuệ.<ref>William Francis Collier, ''The great events of history from the beginning of the Christian era to the 19th century'', trang 298</ref><ref>A. Henry Higginson, ''The book of the horse'', trang 208</ref>]]
 
Một sứ thần người Pháp, cho hay, sau bảy năm chinh chiến, vị thế của nước Phổ nâng cao hơn trước hẳn, họ trở thành minh chủ của không ít tín đồ [[Tin Lành]] chống Áo.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 219</ref> Dưới trướng của ông cũng có nhiều vị thống soái kiệt xuất như [[Hoàng tử Heinrich của Phổ (1726&ndash;1802)|Hoàng tử Heinrich em trai ông]], [[Hans Karl von Winterfeldt]], [[Kurt Christoph Graf von Schwerin]], [[Friedrich Wilhelm von Seydlitz]] hay [[Hans Joachim von Zieten]].<ref name="thecolumbia"/> Quân đội Phổ và muôn dân Phổ cũng rất trung thành, nhiệt huyết với vị vua anh hùng Friedrich II Đại Đế.<ref name="Kohlrausch">Friedrich Kohlrausch, ''A history of Germany: from the earliest period to the present time'', các trang 596-598.</ref> Ngay từ thời vua Friedrich Wilhelm I, nạn đào ngũ đã bị xóa bỏ đáng kể trong Quân đội Phổ. Sau khi vua Friedrich II Đại Đế đánh tan tác quân Áo trong cuộc chiến tranh Silesia lần thứ nhất (1740 - 1742), trai tráng Phổ, dù có thể chỉ là con trai của một người [[nông dân]] nghèo nàn, đều tự hào khi gia nhập lực lượng Quân đội khải hoàn của vị Quân vương vĩ đại. [[Chủ nghĩa yêu nước]] đã bắt đầu phát triển ở nước Phổ.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 132</ref> Như một người Ngự Lâm quân nói với Quốc vương Friedrich II Đại Đế trong trận thắng huy hoàng tại Leuthen vào năm 1757, thần dân tỉnh [[Pomerania]] thực hiện kỷ luật hết mực xuất sắc. Thần dân xứ [[Mark Brandenburg]] cũng tương tự. Người nông dân Phổ cho con em họ đi lính, và luôn trung thành và tự hào về vị vua chiến thắng và vĩ đại của họ. Sự trung thành này cũng là vị quy tắc tuân phục của đức tin [[Tin Lành]], vốn đã được áp đặt lên nông dân Bắc Đức trong nhiều thế kỷ. Những chiến binh của vua Friedrich II Đại Đế thường hát thánh ca mà họ nghe được ở Nhà thờ trong làng họ. Sau trận thắng oanh liệt tại Rossbach, trận thắng oanh liệt tại Leuthen và nhiều trận thắng oanh liệt khác, họ thường hát bài thánh ca "Tất cả chúng ta hãy cùng tạ ơn Chúa".<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 133</ref> Với lòng yêu nước nồng nàn, trong suốt cuộc Chiến tranh, nhân dân Phổ đã vẽ tranh, viết sách, tiểu sử, sách nhỏ, nói về những tài liệu của vị vua đáng kính của họ: "Friedrich Đại Đế" hoặc là "Friedrich Độc đáo". Những chiến thắng của ông luôn được ca ngợi, ví dụ sau trận đánh kinh hoàng tại Zorndorf (1758), thi sĩ [[Johann Wilhelm Ludwig Gleim]] có viết nên "Thơ ca ngợi [[Muse|Thần nàng thơ]] của chiến tranh". Nhà vua gần như trở thành một siêu nhân; và trong những buổi lễ mừng thọ ông, tiếng súng trường tôn vinh ông luôn vang lên.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 225</ref> Không những thế, tinh thần yêu nước của nhân dân Phổ còn được thể hiện qua thơ ca ngợi sự hy sinh anh dũng vì Tổ quốc của nhà thơ Christian Ewald von Kleist, một viên Sĩ quan Quân đội Phổ bị thương nặng và hy sinh sau trận đánh ác liệt tại Kunersdorf (1759).<ref name="autogenerated1947">Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 220</ref> Ông coi sự hy sinh là cái chết huy hoàng, là cái chết mà mọi thế hệ phải quý trọng.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 222</ref> Bản thân nhà vua cũng thể hiện [[chủ nghĩa anh hùng]] qua những vầng thơ của ông giữa lúc bị hầu hết toàn bộ châu Âu vây hãm vào năm 1757.<ref name="Ritter114">Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 114</ref>
 
Những chiến bại và chiến thắng của nhà vua nước Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm đã mang lại cho ông niềm mến mộ cuồng nhiệt của thần dân, không những đối với ý chí quyết đấu của ông, mà còn đối với cá nhân của ông Theo một Sĩ quan Quân đội Phổ là Johann Wilhelm Archenholtz - đã tham chiến trong bảy năm chinh chiến tàn khốc - trong những năm tháng khốc liệt của cuộc Chiến tranh này, thần dân nước Phổ luôn cùng nhà vua chịu thương chịu khó, và "có phần trong danh tiếng của những chiến công hiển hách của ông". Mọi thần dân thuộc mọi đẳng cấp ở tỉnh Pomerania đã giúp đỡ nhà vua xây dựng một đội quân gồm 5.000 binh sĩ. Các Thánh đường đóng vai trò quan trọng trong việc reo rắc lòng trung quân ái quốc, ca ngợi những chiến công hiển hách của nhà vua, và xem Thiên Chúa cao sao đã phù hộ họ qua việc ban cho họ vua Friedrich II Đại Đế. Một hôm, nhà vua xuất quân thắng trận và một tăng lữ vui sướng tuyên bố rằng, Thiên Chúa đã đưa nước Phổ trở thành vùng đất mạnh hơn cả trong tất cả các vùng đất, và chọn muôn dân Phổ là "thần dân chính yếu của Ngài", và do đó "chúng ta có thể đi trong ánh hào quang của những thần dân được Thiên Chúa lựa chọn".<ref name="autogenerated1947"/> Chiến thắng của nước Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa nhà vua và toàn dân luôn mang lại kết quả vô cùng tốt đẹp, và, với vua Friedrich II Đại Đế trở thành vị [[anh hùng dân tộc]] Đức, nhân dân Đức lại được hiểu về sự phi thường của khí phách anh hùng.<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Doughlas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 130</ref><ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 158</ref>
 
Lực lượng [[Hải quân Phổ]] của dân biển Pomerania đã bảo vệ đất nước chống quân Thụy Điển.<ref name="Treitsche155"/> Do họ không mạnh bằng [[Hải quân Thụy Điển]], nên bị đánh tan tác vào năm 1759. Tuy nhiên, Hải quân Phổ được tái xây dựng vào năm 1761. Trên bộ, quân Thụy Điển bị một toán Kỵ binh nhẹ Phổ chặn đứng. Quân Thụy Điển chưa hề giao chiến với quân chính quy của vua Phổ, và họ phải làm hòa với ông vào năm 1762.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 228</ref>
 
Vương quốc Phổ cũng được giữ vững trong cuộc chiến tranh Bảy năm tàn khốc là nhờ năm pháo đài lớn: [[Kolberg]], [[Szczecin|Stettin]], [[Kustrin]], [[Glogau]] và [[Wrocław|Breslau]]. Các tướng tá của vua Phổ đánh tan tác liên quân Nga - Thụy Điển vào năm 1758.<ref name="Ritter116"/> Chỉ mỗi Kolberg bị rơi vào tay quân Nga vào năm 1761; và sau đó, bốn pháo đài còn lại vẫn luôn gây khó khăn cho quân Nga cho đến khi cuộc chiến tranh kết thúc.<ref>Christopher Duffy, ''The fortress in the age of Vauban and Frederick the Great, 1660-1789'', trang 119</ref> Nhà vua đã giữ vững được các thành trì [[Magdeburg]], Kustrin và Stettin chính là nhờ các đẳng cấp tình nguyện trang bị cho các Trung đoàn.<ref name="Treitsche155">Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 155</ref> Voltaire, một người bạn thân của ông, từng mô tả đất Phổ của Đại đế Friedrich II: ''"...buổi sáng Phổ còn là Spartas, buổi chiều Phổ đã là Athena".'' Từ sau những cuộc chiến tranh đó, nền chính trị Phổ mang tính "bắt cá hai tay" cho tới tận năm 1866. Chiếm được Silesia, vùng đất đai màu mỡ với nhiều thành phố công nghiệp, nước Phổ trở nên giàu có và đông đúc. Nhờ đánh tan tác quân Áo và tất cả các kẻ thù trên trận tiền mà nước Phổ vươn lên thành quốc gia hùng mạnh nhất của vùng [[Trung Âu]], giữ một vai trò quan trọng trong bản đồ Âu châu, với một đội quân khổng lồ<ref name="Schlesinger13"/>.<ref>Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, ''Baron Von Steuben: American General'', trang 14</ref><ref>Samuel Willard Crompton, ''Waterloo'', trang 30</ref> Chiến tranh Silesia cũng khởi đầu hơn một thế kỷ kình địch và xung đột giữa Phổ với Áo với tư cách là hai quốc gia hùng mạnh nhất của đế quốc La Mã thần thánh dân tộc Đức (dù rằng lãnh thổ cả hai quốc gia này đều trải rộng ra ngoài biên giới của đế quốc). Vào năm 1744, hạt Đông Frisia rơi vào tay Phổ khi dòng vua Cirksena kết thúc mà không có người kế vị. Theo một nhà sử học danh tiếng của nước Đức vào thế kỷ XIX là [[Leopold von Ranke]], một liệt cường phải giữ vững đất nước trước sức tấn công của một liên quân các nước khác. Nói như vậy, nước Phổ của vua Friedrich II Đại Đế rõ ràng là một liệt cường, ít nhất là về mặt quân sự.<ref name="hamishcsot"/> Vương quốc Phổ vào thế kỷ XVIII cũng giống như [[Đế quốc Thụy Điển]] vào [[thế kỷ 17|thế kỷ XVII]], có nền chính trị phát triển hùng cường nhờ những chiến thắng của nhà vua và một lực lượng hùng binh tướng mạnh, cùng với một bộ máy Chính phủ hữu hiệu.<ref name="hamishcsot">Hamish M. Scott, ''The emergence of the Eastern powers, 1756-1775'', trang 42</ref> Khi cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn khốc chấm dứt, nước Phổ chiến thắng mà không phải nợ nần,<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 12</ref> và nhà vua còn có 25 triệu [[thaler]] để chuẩn bị cho chiến dịch kế tiếp.<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 13</ref> Tuy ông đã xây dựng những công trình nguy nga tránh lệ chứng tỏ sự thịnh vượng của đất nước, Quốc vương Friedrich II Đại Đế không thích bị nịnh hót. Sau khi Quân đội Phổ ca khúc khải hoàn trở về kinh kỳ sau cuộc Chiến tranh Bảy năm, người thợ chạm lừng danh Daniel Chodowiecki định làm nên một bức hình công phu về cảnh này, và nhà vua khuyên Chodowiecki rằng, không nên làm cho bức hình cầu kỳ quá trớn.<ref name="Clark227">Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 227</ref> Nhà vua cũng không tham gia bất kỳ một buổi lễ ăn mừng nào trong ngày khải hoàn của ông.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 216</ref> Sau một cuộc chiến khốc liệt, vị vua chiến thắng cũng trở nên ảm đạm khi trở về kinh đô.<ref name="Ritter185"/>
 
Quốc vương [[Gustav II Adolf]] và Quốc vương Friedrich II Đại Đế đều là những vị vua - chiến binh, đều giành những chiến thắng lừng lẫy trước những kẻ thù hùng mạnh. Những chiến thắng của nước Phổ vào thế kỷ XVIII, cũng như những chiến thắng của nước Thụy Điển vào thế kỷ XVII, đã in sâu vào tinh thần của dân tộc họ.<ref>Peter H. Wilson, ''The Thirty Years War: Europe's tragedy'', trang 187</ref> Trong suốt triều đại của ông, về mặt ngoại giao, ông thường lợi dụng những bất hòa giữa các cường quốc (ví dụ: Áo, Nga); qua đó, ông phá vỡ liên minh của họ, hoặc khuyến khích họ liên minh với nhau, nhờ đó, Vương quốc Phổ có điều kiện phát triển tương đối thuận lợi.<ref name="kkhaxuan320"/><ref name="Radhey Shyam Chaurasia"/> Trong 23 năm cuối đời, cho tới 1786, ông khuyến khích việc phát triển nhiều vùng ở Phổ, như là [[Oderbruch]]. Vào năm 1764, với sự phò tá đắc lực của Hoàng đệ Heinrich - một nhà ngoại giao tài ba, ông liên minh với nước Nga - đây là Liên minh lâu dài nhất trong lịch sử nền quân chủ Phổ, giúp nước Phổ hùng mạnh thoát khỏi tình trạng cô lập sau cuộc chiến tranh Bảy năm. Với liên minh này, Triều đình Phổ của vua Friedrich II Đại Đế dễ dàng hơn trong việc chi phối các chính sách của Triều đình Nga, và trở thành một trong những quan thầy của Triều đình Ba Lan bù nhìn của nước Nga.<ref name="aGerhardr187"/><ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 188</ref> Đồng thời ông không ngừng nỗ lực tăng cường binh lực và gia tăng ngân khố Phổ để bảo vệ vị thế liệt cường của đất nước,<ref name="Ritter185">Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 185</ref> sau khi đánh bại liên minh chống Phổ của Áo - Pháp - Nga trong bảy năm chinh chiến,<ref>Bernard Pares, ''Russia and the Peace'', trang 95</ref> ông còn tham dự vào [[Sự phân chia Ba Lan|Cuộc phân chia Ba Lan lần thứ nhất]] cùng với [[Áo]] và Nga (1772) để giành thêm lãnh thổ; sau chiến tranh, châu Âu lục địa kiệt quệ, và [[Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva]] có nguy cơ bị chia cắt bởi hai nước Nga và Áo, nên ông quyết định can thiệp.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 263</ref> Ba Lan đang trong tình trạng vô chính phủ, và trong chiến tranh, quân Nga thường đóng quân tại đây, có thể thấy vào năm [[1761]], Quân đội Phổ phá tan tác kho đạn dược của quân Nga tại Ba Lan.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 224</ref>
 
Với chiến thắng về ngoại giao của nước Đức trước Nga và Áo,<ref name="Treitschke163">Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 163</ref> ông đạt được thành quả quan trọng hơn cả so với hai nước kia:<ref name="Brackenbury">C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', các trang 251-254.</ref> nhờ đó Công quốc [[Đông Phổ]] kết nối với những vùng đất khác của vua Friedrich II Đại Đế, hoàn thiện việc thống nhất các lãnh thổ Phổ và tiếp tục thể hiện vai trò liệt cường của Vương quốc Phổ.<ref name="georegre273">Gregorio F. Zaide, ''World history'', trang 273</ref> Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, vùng Đông Phổ bị Nga chiếm đóng nhưng họ vẫn luôn chống Nga, trung thành với nhà vua; sau ngày nhà vua thắng trận, với cuộc chia cắt Ba Lan này, vùng Đông Phổ được giữ vững, hoàn toàn thoát khỏi mối lo sợ về việc quân Nga sẽ [[xâm lược]] trở lại.<ref name="Treitschke163"/><ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 156</ref> Giờ đây, với tư cách là Bá chủ của vùng [[Tây Phổ]], ông mở được những vùng biên cương chiến lược của đất nước đến [[wisla|sông Wisla]] và [[sông Netze]]. Nhà vua xây nên [[kênh đào Bromberg]] cho đến [[oder|sông Oder]], giúp ông hòa nhập sông Wisla với các đường hàng hải nội địa của các lãnh thổ cũ của ông.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 266</ref> Với những cuộc chinh phạt huy hoàng của ông, ông trở thành nhà chinh phạt nổi tiếng nhất của nước Phổ, và là vị thống soái kiệt xuất nhất trong thời đại của ông. Quân đội của ông tuy ít, nhưng nhờ kỷ luật và thiên tài của ông, dẫn đến một loạt chiến thắng oanh liệt trước liên quân chống Phổ.<ref>Winston Groom, ''A Storm in Flanders: The Ypres Salient, 1914-1918: Tragedy and Triumph on the Western Front'', trang 32</ref><ref>[http://books.google.com/books?id=-1IEAAAAMBAJ&lpg=PP1&pg=PA65#v=onepage&q&f=false The Case of the Distinguised Corpses, Will Lang, Life Magazine, Mar 6, 1950]</ref><ref>John Jacob Anderson, ''A Manual of General History - Being an Outline History of the World from the Creation to the Present Time. with Numerous Engravings and Maps. for the Use of Colleges High-Schools, Academies, Etc.'', trang 330</ref>
 
[[Tập tin:Der König überall2.JPG|phải|nhỏ|185px|Tuy ngự trị thiên hạ nhưng vua Friedrich II Đại Đế vẫn sống đời giản dị, chăm chỉ, do đó ông được lòng dân. Là bạn thân của nhà triết học kiệt xuất [[Voltaire]] người Pháp, ông thường đi thị sát, và nói chuyện thân mật với bà con [[nông dân]].<ref name="alicebirkhe"/><ref name="birdshal"/>]]
 
Với một lực lượng Quân đội đầy danh tiếng, ảnh hưởng của nền quân sự nước Phổ còn ảnh hưởng đến nước Nga, nước Pháp và nước Áo láng giềng. Vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế - một trong những nhân vật phi thường của thế giới thời bấy giờ - vô cùng năng nổ trong việc xây dựng lực lượng Quân đội Phổ, ông cũng thường tiến hành duyệt binh, làm cho cả châu Âu phải bái phục. Người ta cũng mong muốn đến viếng thăm kinh thành Berlin, để chhg kiến tận mắt những Trung đoàn quân phục xanh đầy danh tiếng của ông.<ref name="emergence97"/> Cũng trong thời gian đó ông mở cửa biên giới Phổ cho những người chạy trốn khỏi áp bức tôn giáo ở các phần khác của châu Âu, như là người [[Huguenots]]. Ông thực hiện chính sách tự do tôn giáo và gia tăng quyền lợi của những người Do Thái trên đất Phổ.<ref>Paul Hyland, Olga Gomez, Francesca Greensides, ''The Enlightenment: a sourcebook and reader'', trang 63</ref> Vào năm 1750, ông ra Thánh chỉ phán rằng người Do Thái được quyền làm chủ các Trường học, Giáo đường và Nhà nguyện của họ.<ref>David G. Thomas, ''Swimming: steps to success'', trang 16</ref> Ông thực Vương quốc Phổ trở thành một vùng đất hứa, giống như [[Hoa Kỳ]] với dân nhập cư đi tìm tự do trong thế kỉ 19. Trong khi Hoàng đế Áo [[Joseph II của đế quốc La Mã Thần thánh|Joseph II]] thất bại trong chính sách này, vị vua vĩ đại của nước Phổ đã thành công.<ref name="Radhey Shyam Chaurasia"/> Ông cũng xây một [[Cung điện mới (Potsdam)|Tân Hoàng cung]] (''Neues Palais'') vô cùng hoành tráng ở thành phố [[Potsdam]], thể hiện nền quân chủ Phổ sau khi giành chiến thắng trước liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1763), thể hiện những tham vọng của nhà vua và thực lực của nước Phổ đang trên đà lớn mạnh và phú cường, không thể nào bị cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn phá.<ref name="emergence97">Hamish M. Scott, ''The emergence of the Eastern powers, 1756-1775'', trang 97</ref><ref>Derek Fraser, ''The buildings of Europe: Berlin'', trang 136</ref><ref>Earl Steinbicker, ''Daytrips Germany'', trang 306</ref><ref>Hugh Montgomery-Massingberd, ''Burke's royal palaces of Europe'', trang 78</ref> Hoàng cung lừng lẫy này được xây theo kiến trúc [[barốc]].<ref>[[Heinrich Von Treitschke]], [[George Haven Putnam]], Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 194</ref> Với một loạt cung vua phủ chúa, thành phố Potsdam trở thành "[[Versailles]] trên đất Đức".<ref>''Illustrated Encyclopaedia of World History'', trang 392</ref> Là nhân vật chủ chốt trong nền chính trị châu Âu thời bấy giờ, Quốc vương Friedrich II Đại Đế xưng hiệu "Đức Vua của Phổ" vào năm 1772, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong công cuộc giành độc lập của người Phổ khỏi Đế quốc La Mã Thần thánh.<ref>''World and Its Peoples'', trang 328</ref>
 
[[Tập tin:Friedrich Zweite Alt.jpg||nhỏ|150px|Chân dung vua [[Friedrich II của Phổ|Friedrich II Đại đế]]. Ông giành chiến thắng trong hầu hết các trận đánh trong cuộc [[Chiến tranh Bảy năm]] (1756 - 1763) chống lại phần lớn châu Âu. Là một vị vua thành công của chế độ chuyên chế Khai sáng, ông đưa nước Phổ trở nên thịnh vượng.<ref name="alicebirkhe">Alice Birkhead, Heroes of Modern Europe, các trang 135-136</ref><ref name="birdshal">Birdsall S. Viault, ''Schaum's Outline of Modern European History'', trang 127</ref>]]
 
Vua Friedrich Đại đế thực hành [[chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế]], với những thành công vang dội trong việc nội chính. Không những là một thiên tài quân sự, nhà ngoại giao kiệt xuất, ông là vị vua đưa nước Phổ trở nên thịnh vượng, trở thành vị bạo chúa "Khai Sáng" hoàn hảo nhất trên lục địa châu Âu trong nửa sau thế kỷ XVIII, được nhân dân yêu mến.<ref name="Radhey Shyam Chaurasia"/> Tuy bạo ngược khi đối phó với ngoại bang, nhà vua đối xử hào phóng với muôn dân, trị vì giỏi và làm việc chăm chỉ, vì sự thịnh vượng của toàn dân nước Phổ.<ref name="georegre273"/> Bản thân ông cũng là một vị [[vua - triết gia]], nhà văn, nhạc sĩ, nhà bảo trợ của [[khoa học]] và nghệ thuật; là một vị vua huy hoàng không kém vua [[Louis XIV của Pháp]], ông cũng đồng thời là vị vua theo [[chủ nghĩa Khắc Kỷ]].<ref>Bởi Ellen Judy Wilson, Peter Hanns Reill, ''Encyclopedia of the Enlightenment'', trang 451</ref><ref>Emmanuel Le Roy Ladurie, Jean-François Fitou, ''Saint-Simon and the court of Louis XIV'', trang 9</ref><ref>Louis Crompton, "Homosexuality & Civilization", trang 504, nguyên văn bài thơ trong trang 505, trang 508, trang 515.</ref> Với tư cách là một nhạc sĩ tài năng, ông thường chơi thổi [[sáo]], ngay cả lúc chinh chiến.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 185</ref> Là bạn thân đồng thời là độc giả của Voltaire, ông được gọi là "Friedrich Độc đáo", ông có vốn kiến thức uyên thâm, do suốt đời, ông rất thích đọc sách, và đam mê những tác phẩm của [[Fénelon]], [[René Descartes|Descartes]], [[Molière]], [[Pierre Bayle]], [[Boileau]], [[Bossuet]], [[Corneile]], [[Racine]], [[John Locke]], [[Wolff]], [[Gottfried Leibniz]], [[Cicero]], [[Julius Caesar]], [[Lukianos của Samosata|Lucian]], [[Horace]], [[Plutarchus|Plutarch]] ,v.v... và hàng trăm tác gia khác.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 184</ref> Tuy có lúc tình bạn giữa nhà vua và [[Voltaire]] bị rạn nứt (1753), ông hồi phục lại qua những lá thư hết lời ca ngợi đại văn hào kiệt xuất này.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 42</ref> Tuy là vị vua - chiến binh vĩ đại nhất của nước Phổ, ông cũng thể hiện niềm yêu hòa bình.<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 179</ref> Ngay từ năm 1745, sau chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh Silesia, người chiến binh tham vọng này tuyên bố sẽ không đẩy châu Âu vào chiến tranh nữa.<ref name="gerhardritier"/> Vào năm 1749, ông phá tan tành một âm mưu gây chiến tranh Kế vị Thụy Điển của Nữ hoàng Nga [[Elizaveta của Nga|Elizaveta Petrovna]], nhờ vào phản ứng quyết đoán và năng nổ của ông.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great : a historical profile'', trang 96</ref> Giữa lúc cuộc [[Chiến tranh Kế vị Áo]] còn tiếp tục kéo dài cho đến năm 1748, với toàn thể các nước đều kiệt quệ, ông trị vì đất nước thái bình thịnh trị, trở thành một vị Quân vương sáng suốt, hiếu hòa và [[chủ nghĩa nhân văn|nhân đạo chủ nghĩa]], bước vào thời đại hoàng kim của ông trong [[cung điện Sanssouci]], nơi ông trở thành vô cùng gần gũi với nhân đạo chủ nghĩa và được mệnh danh là "Nhà triết học của khu Sanssouci".<ref name="gerhardritier"/><ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 44</ref> Đây là một công trình kiến trúc [[barôc]] do một người bạn hữu của nhà vua xây dựng.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 38</ref> Cuộc Chiến tranh Bảy năm cũng hoàn toàn là một cuộc chiến tranh bảo vệ lãnh thổ và địa vị cường quốc của nước Phổ: Những nỗ lực, hy sinh và những chiến công anh hùng của ông đã mang lại niềm tự hào cho toàn thể dân tộc Đức về sự suy yếu của nước Pháp hùng mạnh, cũng như sức mạnh và tầm ảnh hưởng của nước Phổ vang xa với chiến thắng trong cuộc chiến tranh này (1763). Giữ cuộc chiến tranh, và sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bảy năm, ông vẫn tiếp tục lao đầu vào nghiên cứu các tác phẩm triết học, thơ ca, sử học, ví dụ như [[triết học Khắc Kỷ]] mà ông đam mê.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great : a historical profile'', trang 127</ref> Sau những năm tháng huy hoàng, trước khi mất, ông vẫn còn yêu thích cái nắng.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 281</ref>
 
Không những là một ông vua cần cù siêng năng, ông còn đam mê âm nhạc.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 95</ref> Là vị vua dẫn dắt nền văn hóa đồ sộ của nước nhà trở nên tiến bộ hơn, ông ví von mình với [[Moses]] trên bán đảo [[Bán đảo Sinai|Sinai]], và ông cũng giống như Moses vậy.<ref>Michael O'Loghlin, ''Frederick the Great and his musicians: the viola da gamba music of the Berlin school'', trang 32</ref><ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putna, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', các trang 19-22. Trang 202: "...Moses..."</ref> Do văn võ song toàn, ông được xem là vị vua vĩ đại hơn cả Napoléon.<ref>Mary Lindemann, ''Liaisons dangereuses: sex, law, and diplomacy in the age of Frederick the Great'', trang 73</ref>
{{Cquote|''Chúng ta đang gần như quên lãng một nước Phổ làm gương cho không ít các nước khác. Nước [[Nhật Bản]] là một trong số đó, họ noi theo nước Phổ, nên thỉnh thoảng gọi là "Vương quốc Phổ của [[Châu Á|Á châu]]".''|||Nis Petersen, chuyên gia về vua Friedrich II Đại Đế, phụ trách bộ môn Lịch sử Trường Cao đẳng Quốc gia Jersey<ref>James, Barry: ''[http://www.iht.com/articles/1991/08/15/grea.php 200 Years Later, Frederick the Great Still Makes Trouble]'', [[International Herald Tribune]], August 15 1991{{dead link|date=October 2010}}</ref>}}
 
Là một Quân vương độc đoán, vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế hạn chế uy quyền của Thủ tướng Chính phủ Phổ là [[Bá tước Karl-Wilhelm Finck von Finckenstein]] - người làm quan đến cuối đời ông và luôn trung thành với ông.<ref>Dieudonné Thiébault, ''Original anecdotes of Frederick the Great, King of Prussia: and of his family, his court, his ministers, his academies, and his literary friends'', Tập 2, trang 69</ref><ref>Brendan Simms, "The Impact of Napoleon: Prussian High Politics, Foreign Policy and the Crisis of the Executive, 1797-1806", Cambridge University Press, 2002, tr. 149</ref> Ông đề ra bộ luật dân sự tổng quát, xóa bỏ hình thức tra tấn, thiết lập nguyên tắc Hoàng gia không can thiệp vào những vấn đề tư pháp. Ông cũng sáng lập hệ thống giáo dục "trung học" nâng cao, tiền thân của hệ thống các trường Grammar School ngày nay ở Đức, đào tạo những học sinh giỏi tương lai cho các trường đại học. Ông cũng biến kinh đô [[Berlin]].<ref name="Stanley296">Stanley Sandler, ''Ground warfare: an international encyclopedia'', Tập 1, trang 296</ref> Ông còn tiến đánh Hoàng đế Áo là [[Joseph II của đế quốc La Mã Thần thánh|Joseph II]] trong cuộc [[Chiến tranh Kế vị Bayern]] (1778 - 1779), để buộc Hoàng đế Joseph II phải từ bỏ âm mưu xâm chiếm xứ Bayern. [[Hiệp định Teschen]] (1779) là một thắng lợi của ông, nước Áo phải từ bỏ xứ Bayern.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 278</ref> Bước vào năm 1780, người chiến binh già này trở thành một trong những nhân vật duy nhất có tầm vóc anh hùng trên chính trường Âu châu.<ref name="autogenerated2">Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 279</ref>
 
Sau đó, vào năm 73 tuổi, ông lại còn đánh bại một âm mưu chiếm lĩnh xứ [[Bayern]] của liên minh [[Áo]] - [[Nga]] qua việc thiết lập "[[Liên minh các Vương hầu]]" (1785) thắng lợi, tiếp tục thể hiện vai trò cường quốc của Vương quốc Phổ.<ref name="brackenbury"/><ref>Avner Falk, ''Napoleon against himself: a psychobiography'', trang 68</ref><ref>William Edward Hartpole Lecky, ''A History of England in the Eighteenth Century'', trang 363</ref><ref>Edmond Fitzmaurice, ''Charles William Ferdinand, Duke of Brunswick: An Historical Study, 1735-1806'', trang 24</ref><ref>George Madison Priest, ''Germany Since 1740'', trang 34</ref> "Liên minh các Vương hầu" cũng là cống hiến cuối cùng của nhà vua nước Phổ đối với nền chính trị châu Âu và cả thế giới, đỉnh cao của những chiến thắng mà ông đạt được trong suốt cuộc đời ông, là một chiến thắng lừng lẫy đưa Vương quốc Phổ thoát khỏi sự đe dọa nguy hiểm nhất trong lúc đó. nâng cao thanh thế của nước Phổ.<ref name="Radhey Shyam Chaurasia"/><ref name="vuavidai">W. F. Reddaway, "Frederick the Great and the Rise of Prussia", các trang 148-153, trang 274, trang 288, trang 336, trang 344.</ref><ref>Arthur B. Gunlicks, "The Länder and German federalism", Manchester University Press, 2003, trang 16</ref><ref name="ngaic">Thomas Carlyle, ''History of Friedrich the Second called Frederick the Great'', Tập 6, trang 189, trang 294: ''"Catin du Nord"'', trang 495: ''this is the victory summit of Friedrich's Public History... Friedrich's last feat in the world''.....</ref> Là minh chủ của "Liên minh các Vương hầu", đây là lần đầu tiên nước Phổ hòng thống nhất các vua chư hầu người Đức thành một Đế chế Đức do Quốc vương nước Phổ thống trị.<ref name="anttd">Antti P. Balk, ''Saints & Sinners: An Account of Western Civilization'', Thelema Publications, 2008, trang 661</ref> Lại một lần nữa, ông vươn lên thành vị quan thầy của những ai chống lại những âm mưu của Hoàng đế trong Đế quốc La Mã Thần thánh.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 217</ref> Tuy say mê văn hóa Pháp, vị vua vĩ đại này trở thành một vị [[anh hùng dân tộc]] của nước Đức vì những chiến thắng đáng nhớ của ông trước các đạo quân xâm lược đất Đức.<ref>Ephraim Lipson, ''Europe in the XIXth & XXth centuries, 1815-1939'', trang 61</ref> Hoàng đế Joseph II phải bỏ cuộc, và việc thành lập Liên minh cho thấy vua Friedrich II Đại Đế - kẻ hủy diệt vĩ đại của Đế quốc La Mã Thần thánh<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 199</ref> - trầm mình trong ánh nắng hoàng hôn chói lọi của cuộc đời của một vị anh hùng dân tộc Đại Đức.<ref name="autogenerated2"/> Trước đây, Hoàng đế Joseph II đã từng thăm viếng ông và ca ngợi vị anh hùng này rất nhiều.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 265</ref>
 
[[Tập tin:SansSouciNeuesPalais.JPG|nhỏ|300px|"Tân Hoàng cung" thể hiện sự oai hùng và thịnh vượng của ông vua hùng mạnh Friedrich II Đại Đế, được ông xây dựng từ năm 1763 đến năm 1769, sau cuộc Chiến tranh Bảy năm. Nhưng nhờ thiên tài quân sự của ông, ông đã bảo vệ nước Phổ, đánh bại liên quân Áo, Nga, Pháp, v.v... và kết thúc chiến tranh với 1 nước Phổ hùng mạnh hơn trước hẳn.<ref>Williamson Simpson Oldham, Clayton E. Jewett, ''Rise and fall of the Confederacy: the memoir of Senator Williamson S. Oldham, CSA'', trang 141</ref>]]
Dưới triều đại huy hoàng của ông, nước Phổ lên tới tột đỉnh hoàng kim.<ref>George Sand, ''The Countess of Rudolstadt'', Tập 1-2, trang 8</ref><ref>Friedrich Kapp, ''Life of Frederick William von Steuben: major general in the Revolutionary Army'', trang 47</ref> Với triều đại trị vì lâu dài đến 46 năm, ông đã mở mang lãnh thổ nước Phổ, quốc gia hùng mạnh này rộng lên gấp đôi.<ref name="kkhaxuan320"/><ref>''The Kingfisher History Encyclopedia'', trang 292</ref> Ông đã đề xướng nhiều chính sách về nội trị, quân sự và ngoại giao đã truyền cảm hứng không nhỏ cho [[chủ nghĩa dân tộc]], cũng như [[chủ nghĩa quân phiệt Phổ]].<ref name="kkhaxuan320"/> Một năm sau thắng lợi với "Liên minh các Vương hầu", ông vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế - vị minh chủ của Liên minh này - ngã bệnh qua đời (1786),<ref name="brackenbury">C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', các trang 257-258.</ref> để lại một nước Phổ hùng mạnh, sánh vai với Áo trong việc thống trị vùng [[Trung Âu]]. Trong suốt đời, ông luôn thể hiện một vị vua kỷ cương khắc khe, kỷ cương với cả bản thân mình, và là ''"một thiên tài đích thực xuất sắc nhất đã lên kế vị ngai vàng vào [[thời kỳ cận đại]]"'' - theo nhận định của nhà sử học người Anh là [[John Dalberg-Acton, Nam tước Acton thứ nhất]] (Huân tước Acton).<ref>Charles Downer Hazen, ''Modern European History'', trang 13</ref><ref>[http://www.heritage-history.com/www/heritage.php?Dir=books&MenuItem=display&author=haaren&book=modern&story=frederick Famous Men of Modern Times - Frederick the Great]</ref> Khi ông lên nối ngôi, nước Phổ là một nước yếu nhất trong các cường quốc châu Âu, nhưng với ông, nước Phổ sánh vai với mọi cường quốc trên toàn cõi châu Âu - đây là công lớn của ông.<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 23</ref> Chiến lược và những chiến thắng của người chiến binh vĩ đại xưa trước liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, tài năng của ông và bộ máy Chính phủ Phổ, sẽ còn được Hoàng đế Pháp [[Napoléon Bonaparte]], đại thi hào người Đức [[Johann Wolfgang von Goethe]], thi hào người Đức [[Christian Friedrich Daniel Schubart]], nhà chính trị [[chủ nghĩa tự do|tự do chủ nghĩa]] nước Phổ [[Heinrich Friedrich Karl vom und zum Stein]], Quốc trưởng Đức Quốc Xã [[Adolf Hitler]] phải thán phục.<ref name="interiors"/><ref name="vanhoamanh">T. C. W. Blanning, ''The Culture of Power and the Power of Culture: Old Regime Europe 1660-1789'', trang 230</ref><ref name="vanhoaau">Michael A. Meyer, ''The origins of the modern Jew: Jewish identity and European culture in Germany, 1749-1824'', trang 23</ref><ref>George Peabody Gooch, ''Germany and the French Revolution'', Tập 1, trang 6</ref><ref>Neil Grant, ''Oxford Children's History of the World'', Tập 2, trang 108</ref><ref>Paul G. Partington, ''Who's who on the postage stamps of Eastern Europe'', Scarecrow Press, 1979, trang 393</ref><ref>Owen Connelly, ''On War and Leadership: The Words of Combat Commanders from Frederick the Great to Norman Schwarzkopf'', trang 11</ref> Đương thời, các chính sách của vua Friedrich II Đại Đế và Chính phủ Phổ cũng luôn được vua xứ [[Torino]] thán phục.<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 170</ref><ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 182</ref> Là vị vua thắng trận trong mọi cuộc chiến tranh, ông được xem là một vị vua giỏi hơn cả vua Louis XIV và các vị vua [[nhà Bourbon]] của Pháp. Khác với vua Louis XIV, ông nói:<ref name="georegre273"/>
{{cquote|''Trẫm là công bộc đầu tiên của Quốc gia.''|||Friedrich II Đại Đế}}
 
Sau khi thành công trong cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất (1772), vua Friedrich II Đại Đế - "nhân vật dẫn dắt của thế kỷ ông"<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang XII</ref> - nhận thấy phần đất Ba Lan mà ông chiếm được đã lâm vào hỗn loạn nghiêm trọng. Ông thân hành thị sát khắp các vùng đất này, và xóa tan tình trạng này. Tuy Triều đình Phổ thống trị hà khác, ông đã mang lại cho phần đất này một cuộc sống tương đối phồn vinh.<ref name="Brackenbury"/> Có nhiều giai thoại nói về ông.<ref name="autogenerated3">Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 283</ref> Sự mến mộ ông trở thành di sản lâu dài nhất của phong trào yêu nước Phổ. Sau khi ông qua đời vào năm [[1786]], nền văn hóa Friedrich ăn sâu vào nhân dân Phổ, với lòng yêu quý nhà vua cực kỳ mãnh liệt. Ông ngự trị trên ngai cao trong suốt 46 năm - gần lâu bằng vị tiên liệt hiển hách của ông - "Tuyển hầu tước vĩ đại". "Friedrich Độc đáo" - một Quân vương đầy nghị lực và tài hoa, đã tự mình quyết chiếm tỉnh Silesia đã làm mê hoặc những người đương thời, và lôi cuốn những nhà sử học. Biết bao nhiêu người tưởng niệm vị vua quá cố, và nhiều nhà xuất bản cũng ca ngợi ông.<ref name="Clark183"/> Một tác phẩm ca ngợi ông thành công nhất, và nổi trội nhất là bản tóm tắt của nhà văn [[Friedrich Nicolai]] - một tác gia lừng danh của trào lưu Khai Sáng tại chốn kinh kỳ Berlin. Ông là một trong số những thần dân Phổ còn sống sót cho đến cuối thập niên 1780, đối với họ, Quốc vương Friedrich II Đại Đế có lẽ luôn luôn ngự trên ngai cao. Ông là nhân chứng của cuộc Chiến tranh Bảy năm và công cuộc tái thiết đất nước của nhà vua sau năm 1763, và suy ngẫm về vị vua vinh quang, ông cho rằng, là để ''"học hỏi một nhân vật đúng đắn của Tổ quốc của một ai đó"''.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 228</ref>
 
Với vua Friedrich II Đại Đế, một cường quốc Kháng Cách hùng mạnh của người Đức trỗi dậy mạnh mẽ, nên trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, [[Giáo hoàng]] [[Vatican]] đã thể hiện thái độ thù địch với nước Phổ.<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 153</ref> Thành công của vua Phổ là thất bại thảm hại nhất của [[Tòa Thánh|Toà Thánh]] [[Roma|Rôma]] kể từ thời Thánh [[Martin Luther]].<ref name="Treitsche155"/> Vào năm 1786, nước Phổ là quốc gia đông dân thứ 13, rộng lớn thứ 10 nhưng có Quân đội đông đảo thứ ba trên toàn cõi châu Âu. Chính nhờ một lực lượng Quân đội tinh nhuệ mà vua Friedrich II Đại Đế vẫn luôn giữ được thế mạnh của mình dù liên minh giữa ông với các cường quốc khác (Ví dụ: Nga) thường tan rã. Quân đội Phổ hùng mạnh đến mức mà một viên Sĩ quan phụ tá của nhà vua trong cuộc Chiến tranh Bảy năm là [[Georg Heinrich Berenhost]] phải để đời một câu nói đáng nhớ:<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 215</ref>
Dòng 195:
 
== Lịch sử nước Phổ (1786 - 1850) ==
Sau khi vua Friedrich II Đại Đế qua đời, Vương quốc Phổ trở nên suy yếu, do không có những vị vua tài ba. Với bộ máy Chính phủ Phổ do ông gầy dựng nên, nước Phổ cần phải có một ông vua kiệt xuất như ông, và do không có những ông vua kiệt xuất như vậy, nước Phổ suy yếu.<ref name="Radhey Shyam Chaurasia"/> Do vua Friedrich II Đại Đế không có con, ông truyền ngôi cho người cháu gọi ông bằng bác là vua [[Friedrich Wilhelm II của Phổ|Friedrich Wilhelm II]] - một ông vua không sáng suốt và nhìn xa trông rộng như ông. Khác với bác của mình, Quốc vương Friedrich Wilhelm II đã thi hành chính sách [[phản động]], phản [[cách mạng]] và bài bác [[Hội Tam Điểm]].<ref>John H. Zammito, ''The genesis of Kant's critique of judgment'', trang 11</ref><ref>Eric Dorn Brose, ''German history, 1789-1871: from the Holy Roman Empire to the Bismarckian Reich'', trang 26</ref><ref>James J. Sheehan, ''German history, 1770-1866'', trang 292</ref> Ông vua phản động này đã tiến hành chính sách kiểm duyệt và để đám sủng thần lũng đoạn triều chính.<ref>Adrian Johns, ''Piracy: the intellectual property wars from Gutenberg to Gates'', trang 55</ref><ref name="autogenerated4">Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 154</ref> Một thời kỳ lịch sử đã qua đi sau khi vua Friedrich II Đại Đế về cõi vĩnh hằng.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 201</ref> Với sự kiện ấy, trào lưu Khai Sáng xuống dốc nghiêm trọng trên đất Đức sau năm 1786, và cuối cùng cũng tan biến vào thập niên 1790. Vua Friedrich Wilhelm II trọng dụng một viên cận thần cực kỳ bảo thủ là [[Johann Christoph Wöllner]] - vốn đã bị tiên vương Friedrich II Đại Đế chê trách.<ref>Graeme Garrard, ''Counter-enlightenments: from the eighteenth century to the present'', trang 56</ref> Ông cũng sáp nhập thêm một phần Ba Lan qua các cuộc [[Phân chia của Ba Lan]] sau đó. Tuy mở rộng đáng kể bờ cõi nước Phổ, nhưng ông không có tài năng về chính trị và quân sự.<ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/218058/Frederick-William-II Fredrick William II (King of Prussia)]</ref>
 
Ông trở thành một vị vua mất lòng dân.<ref>Joseph A. Biesinger, ''Germany: a reference guide from the Renaissance to the present'', trang 392</ref> Người kế vị ông, vua [[Friedrich Wilhelm III của Phổ|Friedrich Wilhelm II]] (1797-1840) tuyên bố hợp nhất giáo hội Tin Lành dòng Luther Phổ và giáo hội Kháng Cách. Quốc vương Friedrich Wilhelm III không giỏi lắm, phải lệ thuộc vào các quan đại thần.<ref name="autogenerated4"/> Nước Phổ đóng vai trò đóng vai trò chủ đạo trong [[Chiến tranh Cách mạng Pháp]]. Tuy nhiên sau [[Hòa ước Basel]] năm 1795, Phổ im hơi lặng tiếng trong hơn một thập kỉ, chỉ tham chiến một lần nữa với Pháp vào năm 1806 khi thương lượng với Pháp về vùng ảnh hưởng của Phổ ở Đức đổ vỡ. Trong lúc này, những chiến công hiển hách của Quốc vương Friedrich II Đại Đế năm xưa, vẫn còn được ghi nhớ trong lòng muôn dân Đức.<ref name="Britannica"/> Trong [[trận Jena|trận Jena-Auerstedt]], Quân đội Phổ bị quân [[Pháp]] của [[Napoléon Bonaparte]] đánh thất bại nặng nề, khiến cho vua [[Friedrich Wilhelm III của Phổ|Friedrich Wilhelm III]] (1797-1840) và Hoàng gia phải chạy sang [[Klaipėda|Memel]] tạm thời lánh nạn. Tuy nền quân chủ Phổ đã gần như sụp đổ, họ vẫn chiến đấu với sự hỗ trợ của [[Đế quốc Nga]]. Một viên tướng tài năng là [[Gerhard von Scharnhorst]] cầm đầu đạo quân Phổ tại vùng Đông Phổ , với sự hỗ trợ của Quân đội Nga đông đảo hơn ông đã đánh Pháp trong [[trận Eylau]] bất phân thắng bại.<ref>[[Peter Paret]], ''The cognitive challenge of war: Prussia 1806'', trang 83</ref> Tuy nhiên, quân Pháp đánh tan tác Quân đội Nga trong [[trận Friedland]] (1807), buộc [[Sa hoàng|Nga hoàng]] [[Aleksandr I của Nga|Aleksandr I]] phải làm hòa,<ref name="nicholas108">David Nicholls, ''Napoleon: a biographical companion'', trang 108</ref> và liên minh Nga - Phổ yểu thọ chấm dứt.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 308</ref> Vào năm đó, Hoàng đế Napoléon Bonaparte đến kinh thành Berlin và ca ngợi vị tiên vương Friedrich II Đại Đế. Không những Napoléon mà danh tiếng lẫy lừng của vị vua nước Phổ này cũng làm nhiều người Pháp khác thán phục.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 307</ref>
Trong lịch sử nước Phổ, Pháo đài Kolberg nổi tiếng là đã hứng chịu đến năm cuộc vây hãm, nổi bật hơn cả là [[Cuộc vây hãm Kolberg (1807)|cuộc vây hãm]] của quân Pháp vào năm 1807.<ref>Christopher Duffy, ''Red storm on the Reich: the Soviet march on Germany, 1945'', trang 232</ref> Tướng [[August Neidhardt von Gneisenau]] chống trả quyết liệt, với sự hỗ trợ của nhân dân yêu nước ông đã giam chân được quân Pháp.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 325</ref> Cuộc chống trả của Gnesenau đã giành thắng lợi, do đó ông được ban Huy chương cao quý.<ref>Harold Everett Stearns, ''Germany's military heroes of the Napoleonic era in her post-war historical drama: currents of German nationalism in recent historical plays'', trang 45</ref> Sau chiến công anh hùng này, ông nhiệt liệt hoan nghênh việc cải cách Quân đội Phổ, và trở thành một trong những viên chỉ huy xuất sắc nhất của Quân đội Phổ.<ref>James J. Sheehan, ''German history, 1770-1866'', trang 308</ref> Chiến công của Quân đội Phổ tại Kolberg đã được đưa lên màn ảnh nước Đức vào thời Đức Quốc Xã sau này.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 661</ref>
 
Với thất bại của Quân đội Nga tại Friedland,<ref name="nicholas108"/> theo [[Hiệp ước Tilsit]] 1807, Vương quốc Phổ mất đi khoảng một nửa lãnh thổ, đặc biệt là các khu vực chiếm được từ các cuộc [[Phân chia Ba Lan]] thứ hai và thứ ba, các vùng này giờ thuộc về [[Đại công quốc Warsaw]]. Hơn thế nữa, vua Phổ buộc phải liên minh với Pháp và tham gia vào [[Hệ thống phong tỏa Lục địa]]. Đáp lại thất bại này, những Bộ trưởng chủ trương cải cách như [[Heinrich Friedrich Karl Reichsfreiherr vom und zum Stein|Stein]] và [[Karl August von Hardenberg|Hardenberg]] tiến hành hiện đại hóa nước Phổ, bao gồm giải phóng nông dân khỏi [[chế độ nông nô]], giải phóng và ban quyền công dân cho người [[Do Thái]], thiết lập thể chế tự trị cho các đô thị. Hệ thống trường học được sắp xếp lại, và vào năm 1810 ban hành tự do thương mại. Quá trình cải cách quân đội hoàn thành vào năm 1813 với việc ban hành chế độ quân dịch.
 
Sau khi [[Chiến tranh Pháp-Nga (1812)|Napoléon thất bại ở Nga]], nước Phổ rút khỏi liên minh với Pháp và tham gia vào [[Liên minh thứ 6]] trong [[cuộc chiến tranh Giải phóng]] (''Befreiungskriege'') chống lại sự chiếm đóng của Pháp. Quân đội Phổ đóng vai trò quyết định trong chiến dịch năm 1813 giữa quân Pháp và Liên quân chống Phổ (Phổ, Áo, Nga, v.v...).<ref name="CMClark371"/> Vào năm 1813, dù quân Pháp chiến đấu dũng cảm, quân Pháp giành [[chiến thắng kiểu Pyrros]] trước Quân đội Phổ trong [[trận Bautzen]], và Quân đội Phổ giành chiến thắng trong [[trận Leipzig]] cùng năm đó.<ref>Houghton Mifflin Company, ''The Houghton Mifflin dictionary of biography'', trang 561</ref><ref>Lieutenant - General, ''A Nation Trained in Arms Or a Militia'', trang 76</ref> Vào năm 1814, Quân đội Phổ còn tiến đánh kinh thành [[Paris]] của Pháp, giành chiến thắng và vua Napoléon phải thoái vị.<ref name="Crompton34">Samuel Willard Crompton, ''Waterloo'', trang 34</ref> Vị Hoàng đế này trở vệ từ nơi lưu đày không lâu sau đó, và Quân đội Phổ dưới sự chỉ huy của Thống chế [[Gebhard Leberecht von Blücher]] góp phần quyết định trong [[Trận Waterloo|chiến thắng Waterloo]] năm 1815, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Napoléon. Danh tiếng của nước Phổ lan truyền trên khắp cõi châu Âu. Tờ báo "Times" ở thủ đô [[Luân Đôn]] (Anh Quốc) có bình luận:<ref>Frederick Franklin Schrader, ''1683-1920'', trang 58</ref>
{{cquote|''Hầu như tất cả mọi chiến thắng quyết định sự sa ngã của nhà chinh phạt này (Napoléon) đều có nước Phổ tham gia. Quân đội Phổ luôn luôn tham chiến trong cả hai trận đánh tại Lutzen và Bautzen; Quân đội Phổ cũng luôn luôn tham chiến trong cả hai trận đánh tại Grossberen và Leipzig; Quân đội Phổ cũng luôn luôn tham chiến trong những trận đánh trên nước Pháp, và cuối cùng, Quân đội Phổ luôn luôn tham chiến trong trận đánh tại Waterloo. Người chiến binh Phổ đã thể hiện anh ta là người chiến binh xuất sắc nhất trong những chiến dịch này.''|||Tờ báo Times}}
 
Chiến thắng trước Napoléon đã thể hiện chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Phổ, mang lại cho đất nước sự huy hoàng chẳng khác gì nhân dân [[Hy Lạp cổ đại|Hy Lạp]] khi đập tan tác quân Ba Tư của Hoàng đế [[Xerxes I của Ba Tư|Xerxes I]].<ref>John Adam Cramb, ''Germany and England'', trang 23</ref> Thống chế Gebhard Leberecht von Blücher vốn là một chiến binh Thụy Điển trong Chiến tranh Bảy năm, bị Quân đội Phổ bắt sống và gia nhập trong lực lượng Kỵ binh nhẹ xuất sắc của vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế và phò tá đắc lực trong những năm tháng huy hoàng của vị vua này.<ref name="Crompton34"/> Ông từng là một trong những viên Sĩ quan xuất sắc nhất của nước Phổ.<ref>Samuel Willard Crompton, ''Waterloo'', trang 32</ref> Chiến thắng tại Waterloo trở thành một những trận thắng lẫy lừng trong lịch sử Quân đội Phổ, cùng với những trận chiến tại Rossbach, Leuthen hay Leipzig.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', Trang XVIII</ref> Tại [[Hội nghị Viên]] 1815, để thưởng công cho Phổ, Phổ được thu lại các lãnh thổ đã mất, cũng như được thêm toàn bộ vùng [[Rhineland]], [[Westphalia]] và một số vùng đất khác. Những vùng đất phía tây có tính chất sống còn với Phổ, bởi vì chúng bao gồm vùng [[Ruhr]], trung tâm [[công nghiệp]] non trẻ của Đức, đặc biệt là công nghiệp quân sự. Những vùng đất mới được sáp nhập này làm tăng gấp đôi dân số Phổ. Để đổi lại, Phổ rút khỏi khu vực trung tâm Ba Lan để thành lập [[Liên hiệp Ba Lan]] (''Congress Poland'') dưới quyền cai quản của Nga. Phổ nổi lên từ sau cuộc [[Các cuộc chiến tranh của Napoléon|Chiến tranh Napoléon]] như là bá chủ của Đức, làm lu mờ đối thủ lâu đời là [[Áo]], nước đã chịu mất địa vị Hoàng đế Đức năm 1806. Kể từ năm 1815, Phổ trở thành một thành viên của Liên minh các quốc gia Đức.
[[Tập tin:MapGermany1815.gif||nhỏ|300px|trái|Nước Đức sau Công ước Viên 1815]]
[[Tập tin:FriedrichWilhelmIV.jpg||nhỏ|150px|trái|Vua [[Friedrich Wilhelm IV của Phổ|Friedrich Wilhelm IV]]]]
Nửa đầu của thế kỉ thứ 19 chứng kiến cuộc đấu tranh dai dẳng trong nước Đức giữa những người theo [[chủ nghĩa tự do]] muốn một có liên bang Đức thống nhất dưới một hiến pháp dân chủ, và những người theo [[chủ nghĩa bảo thủ]], muốn duy trì nước Đức như là một tập hợp chắp vá bởi các tiểu quốc quân chủ độc lập, với Phổ và Áo tranh giành ảnh hưởng. Do Phổ có ưu thế về lãnh thổ và dân số nên các tiểu quốc Đức bắt đầu gia nhập vùng tự do kinh tế do Phổ lập ra vào năm 1820. Phổ được hưởng rất nhiều lợi ích từ việc lập ra Liên hiệp Thuế quan Đức ([[Zollverein]]), bao gồm hầu hết các tiểu quốc Đức, ngoại trừ Áo. Quốc vương Friedrich Wilhelm III từng hứa hẹn sẽ ban hành [[Hiến pháp]], nhưng đến khi ông qua đời vào năm [[1840]] thì lời hứa này vẫn không được thực hiện. Những người có tư tưởng tiến bộ và [[chủ nghĩa tự do]] trên khắp Vương quốc sẽ còn gửi gắm hy vọng vào tân vương Friedrich Wilhelm IV.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 435</ref> Quốc vương Friedrich Wilhelm IV lên ngôi vua lúc đã 45 tuổi. Ông là một người khó hiểu, kể cả đối với những người đương thời rất am hiểu về ông. Khác với các bậc tiên vương Friedrich II Đại Đế, Friedrich Wilhelm II và Friedrich Wilhelm III đều được nuôi dạy dưới tinh thần và những giá trị của trào lưu Khai Sáng. Ngược lại, vua Friedrich Wilhelm IV được dạy dỗ bởi các danh sĩ của [[chủ nghĩa lãng mạn]].<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 436</ref>
 
Ông trở thành một vị vua lãng mạn bảo thủ, ông tin vào thần quyền của Nhà vua.<ref>R. Larry Todd, ''Mendelssohn and his world'', trang 145</ref> Ông thi hành chính sách [[phản động]], chống cải cách.<ref name="Bell130"/> Ông là một trong những người đã tạo ra một tinh thần bảo thủ ở châu Âu từ sau làn sóng Cách mạng năm 1848 cho đến khi chế quân chủ Đức sụp đổ vào năm 1918. Vào năm 1848 những người theo chủ nghĩa tự do có một cơ hội khi [[Các cuộc cách mạng năm 1848|các cuộc cách mạng bùng nổ khắp châu Âu]]. Vua [[Friedrich Wilhelm IV của Phổ|Friedrich Wilhelm IV]] đã đồng ý triệu tập Quốc hội và thông qua một bản Hiến pháp. Khi [[Quốc hội Frankfurt]] phong Friedrich Wilhelm IV làm hoàng đế của một nước Đức thống nhất, ông từ chối với lý do ông không thể nhận vương miện từ Quôc hội lập ra từ cách mạng mà không được sự ủng hộ của các hoàng gia Đức khác.
Dòng 230:
Bismarck nhận ra rằng cơ chế quản lý kép Schleswig và Holstein chỉ là một giải pháp tình thế, đồng thời sự căng thẳng cũng tăng dần lên giữa Phổ và Áo. Nguyên nhân sâu xa của cuộc [[chiến tranh Áo-Phổ]] (1866) là sự tranh chấp ngôi bá chủ nước Đức giữa Áo và Phổ, sự bất đồng về Schleswig và Holstein chỉ là ngòi lửa thổi bùng cuộc chiến tranh.
 
Đứng về phía nước Áo là những bang miền nam (bao gồm [[Bayern|Bavaria]] và [[Württemberg]]), một số bang miền trung và lãnh địa Hannover ở miền bắc nước Đức; về phía Phổ là đa phần các bang phía bắc nước Đức, một số tiểu bang miền trung và [[Ý]]. Quân Phổ được vũ trang tốt hơn hẳn quân Áo, dưới quyền chỉ huy của đại tướng [[Helmuth von Moltke]] đã đánh thắng trận chiến quyết định Königgrätz. Nước Áo thua trận, mất quyền bá chủ vào tay nước Phổ và phải rời Liên minh các quốc gia Đức. Trong khi năm xưa vua Friedrich II Đại Đế giành chiến thắng là nhờ lòng dũng cảm và tài năng của chính ông, Thủ tướng Bismarck sẽ không thành công trong sự nghiệp dài lâu của mình nếu không có Đại tướng Helmuth von Moltke.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 10<name="ReferenceA"/ref> Bismarck chủ trương liên minh với Áo trong tương lai, nên không đặt bất kỳ yêu sách lãnh thổ nào lên Đế quốc Áo. Hòa ước Praha năm 1866 mang lại cho nước Phổ các vùng đất vốn là đồng minh của Áo như Vương quốc [[Hannover]], vùng [[Hesse-Kassel]], Công quốc [[Nassau]], thành phố [[Frankfurt am Main|Frankfurt]], toàn bộ miền Schleswig-Holstein, và như vậy đã giúp kết nối tất cả vùng đất thuộc Phổ. Cùng năm, Liên minh các quốc gia Đức giải tán và được thay thế bằng Liên bang miền bắc Đức gồm Phổ và 26 tiểu bang khác vào năm sau.
 
Thoạt tiên chỉ là một liên minh quân sự, các thành viên của liên minh chấp thuận một hiến pháp cho phép Phổ có một vai trò lãnh đạo trên toàn liên minh, và thực tế là Phổ chiếm tới bốn phần năm diện tích và dân số liên minh. Bản hiến pháp mới được thảo bởi Bismarck là tiền đề cơ bản cho Hiến pháp Đế chế Đức sau này. Nhà vua Phổ và Thủ tướng Phổ trở thành Tổng thống và Thủ tướng của Liên minh miền bắc Đức. Tổng thống có quyền lực hành pháp và chức vị này được dành riêng cho Hoàng gia Hohenzollern trị vì nước Phổ. Dưới Tổng thống là thủ tướng và hai viện. Hạ nghị viện được bầu bằng hình thức phổ thông đầu phiếu, còn Thượng viện, có nhiều quyền lực hơn, được chọn ra bởi thủ hiến các bang. Phổ nắm 17 trong số 43 ghế Thượng viện và có khả năng kiểm soát Thượng viện dễ dàng thông qua liên minh với các bang khác.
Dòng 266:
Từ năm 1919 đến năm 1932, liên minh của Đảng Dân chủ Xã hội, Công giáo Trung lập, và [[Đảng Dân chủ Đức]] nắm quyền điều hành nước Phổ; từ 1921 đến 1925 các chính phủ liên minh bao gồm cả [[Đảng Nhân dân Đức]]. Không giống như các bang khác trong Liên bang Đức, chính quyền của các đảng phái dân chủ, chiếm đa số ở Phổ, không bao giờ bị lâm vào khủng hoảng. Tuy vậy ở vùng [[Đông Phổ]] và các khu vực công nghiệp, [[Đảng Quốc gia Xã hội Đức]], tức đảng Nazi, của [[Adolf Hitler]] có ảnh hưởng ngày càng mạnh và có nhiều người ủng hộ, đặc biệt là từ các thành phần [[tầng lớp trung lưu|trung lưu]] nghèo và các thành phần lao động ở tầng lớp [[hạ lưu]]. Ngoại trừ vùng [[Thượng Silesia]] của Phổ theo [[Giáo hội Công giáo Rôma]], đảng Nazi tới năm 1932 trở thành đảng lớn nhất ở Phổ. Tuy nhiện, các đảng phái dân chủ gom lại vẫn chiếm đa số, trong khi những người cộng sản và phát xít ở phe đối lập.
 
[[Otto Braun]] người Đông Phổ, nguyên Tổng thống-Thủ tướng Phổ liên tục từ năm 1920 đến năm 1932, được xem như là một trong những thành viên đảng Xã hội Dân chủ có năng lực nhất trong lịch sử. Ông, cùng với Bộ trưởng Nội vụ [[Carl Severing]] đã thi hành một số cải cách hợp thời, sau này là khuôn mẫu cho nước [[Đức|Cộng hòa Liên bang Đức]]. Chẳng hạn như, ông đặt ra "bỏ phiếu bất tín nhiệm có tính xây dựng" để chỉ cho phép bãi nhiệm Thủ tướng nếu có một đa số chắc chắn bỏ phiếu người kế nhiệm. Bằng cách này chính quyền của nhà nước Phổ có thể tồn tại nếu là không có một "đa số cấp tiến" mới đủ mạnh để thách thức chính phủ. Nhìn tổng thể, đa số các sử gia cho rằng nhà nước Phổ vào thời gian này thành công hơn nhà nước Đức.
 
Khác với hình ảnh quân phiệt trước chiến tranh, Phổ là trụ cột nền dân chủ của Cộng hòa Weimar. Chính thể này chỉ bị sụp đổ sau cuộc "đảo chính" của Thủ tướng Liên bang Đức ([[Reich Chancellor]]) [[Franz von Papen]]. Trong cuộc đảo chính này, Chính quyền Liên bang (Reich) giải tán nhà nước Phổ vào ngày [[20 tháng 7]] năm [[1932]], dưới cớ là Chính quyền Phổ đã không còn kiểm soát được an ninh (sự kiện ngày Chủ nhật Đẫm máu ở [[Altona, Hamburg]]). Papen tuyên bố là Ủy viên Liên bang tại Phổ và tự nắm lấy chính quyền. Cuộc đảo chính khiến cho mọi việc càng trở nên dễ dàng hơn cho Adolf Hitler, khi ông ta chiếm toàn bộ bộ máy chính quyền Phổ, bao gồm cả lực lượng cảnh sát chỉ nửa năm sau.
Dòng 282:
Theo "Luật Đại Hamburg" ("Groß-Hamburg-Gesetz"), một số vùng lãnh thổ được chuyển đổi. Phổ được mở rộng vào [[1 tháng 4]] [[1937]], chẳng hạn, bằng việc sự sát nhập thành phố Tự do Hanseatic [[Lübeck]].
 
Các vùng đất của Phổ chuyển giao cho Ba Lan sau [[Hòa ước Versailles]] được sát nhập trở lại trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] (1939 - 1945). Tuy vậy, đa số các vùng này không được nhập lại vào Phổ mà được gán cho một vùng ''Gaue'' riêng của nước ''[[Großdeutsches Reich|Đức Quốc xã]]''.
 
Trong suốt cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh thế giới lần thứ hai]], nền văn hóa Friedrich hãy còn ảnh hưởng đến chính quyền Đức Quốc Xã. Vua Friedrich II Đại Đế luôn được Adolf Hitler so sánh với ông ta. Bản lĩnh anh hùng của nhà vua đã cho thấy một lịch sử hùng mạnh của nước Phổ. Trong những thời khắc khó khăn cuối cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông ta luôn luôn mang theo bức chân dung vua Friedrich II Đại Đế do họa sĩ Graff vẽ, và ông ta cho rằng, bức tranh này đã giúp cho ông ta trở nên tự tin hơn trong những khi nghe tin dữ.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 662</ref> Tuy nhiên, nhà sử học vĩ đại người Đức là [[Gerhard Ritter]] phản đối. Khi Adolf cho rằng mình là kẻ thừa kế của nước Phổ trong Ngày lễ Potsdam vào năm 1933, nhà sử học Gerhard Ritter cho rằng, đây là sự xuyên tạc lịch sử. Ông liền viết một cuốn tiểu sử được đánh giá rất cao về vị vua anh hùng - Khắc Kỷ Friedrich II Đại Đế<ref name="Ritter114"/>, qua đó ông chỉ trích Hitler bằng việc ghi nhận về những tham vọng chiến tranh có hạn chế của nhà vua, đồng thời, vị vua anh minh gắn bó với trào lưu Khai Sáng, khác viết tên trùm phát xít bạo ngược Hitler.<ref>Weeks, Gregory "Ritter, Gerhard A." pages 996-998 from ''The Encyclopedia of Historians and Historical Writing'', Fitzroy Dearborn Publishers: London 1999 page 997.</ref><ref>Schwabe, Klaus "Gerhard Ritter" pages 83-103 from ''Paths of Continuity'' Washington, D.C. : German Historical Institute, 1994 page 95.</ref><ref>Schwabe, Klaus "Gerhard Ritter" pages 83-103 from ''Paths of Continuity'' Washington, D.C. : German Historical Institute, 1994 pages 94-95.</ref>
 
Cùng với sự chấm dứt của Đảng Quốc gia Xã hội vào năm 1945 là sự phân chia Đức thành các vùng chiếm đóng. Các vùng phía đông của [[đường biên Oder-Neisse]], (bao gồm [[Silesia]], [[Ngoại Pomerania]], [[Đông Brandenburg]], và nam [[Đông Phổ]]), rơi vào tay Ba Lan (một phần ba phía bắc của Đông Phổ, bao gồm cả Königsberg, nay là [[Kaliningrad]], về [[Liên Xô|Liên bang Xô viết]]). Ngày nay [[Kaliningrad Oblast]] là một vùng lãnh thổ hải ngoại của Nga nằm giữa [[Litva]] và [[Ba Lan]]. Có khoảng 10 triệu người Đức đã bị [[Sự trục xuất của người Đức sau thế chiến thứ 2|trục xuất]] khỏi những vùng đất này như là một phần của cuộc di tản của người Đức khỏi Đông Âu.
Dòng 291:
 
Phần lãnh thổ phía tây bị quân Đồng minh chiếm đóng trở thành Tây Đức vào năm 1949. Các lãnh thổ cũ của Phổ được chia cho các bang Bắc Rhine-Westphalia, Hạ Saxony, Hesse, Rhineland-Palatinate, và Schleswig-Holstein. Các vùng [[Württemberg-Baden]] và [[Württemberg-Hohenzollern]] sát nhập với [[Baden]] tạo ra bang [[Baden-Württemberg]].
Sau khi Liên bang Xô Viết tan rã, một số lượng nhỏ [[người gốc Đức]] từ [[Kazakhstan]] đã bắt đầu định cư tại vùng Kaliningrad của [[Nga|Liên bang Nga]], vốn là phần phía bắc của Đông Phổ. Đó là một phần của làn sóng nhập cư vào khu vực này, trước đó là một khu vực cấm. Vào khoảng 2005, khoảng 6.000 (0.6% dân số) là dân gốc Đức sống ở đây, đa số từ các vùng khác của Nga.
 
Sau sự [[thống nhất nước Đức]] vào năm 1990 một kế hoạch được đưa ra để sát nhập các bang Berlin và Brandenburg. Mặc dù một số người đề nghị tên của bang mới này là "Prussia", tức Phổ, nhưng không có cái tên nào được chọn, và bang có lẽ sẽ được gọi là "Berlin-Brandenburg" hoặc "Brandenburg". Tuy vậy sự sát nhập này đã bị bác bỏ vào năm 1996 trong cuộc trưng cầu dân ý, bởi đa số cử tri ở Tây Berlin. Cũng sau khi nước Đức thống nhất, thi hài của ông vua lừng lẫy Friedrich II Đại Đế (vốn từng được mai táng ở [[Nhà thờ Công sự (Potsdam)]] trước khi Nhà thờ bị phá hủy trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 655</ref>) được đưa về Cung điện Sanssouci mà mai táng vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[1991]], theo ước muốn của ông, là chôn cất ông cũng với những chú [[chó săn thỏ]] của ông, sau biết bao biến cố lịch sử.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 690</ref>
== Xem thêm ==
Dòng 323:
* [[Christopher Duffy]], [http://books.google.com.vn/books?id=-PMNAAAAQAAJ&printsec=frontcover&dq=%22Frederick#v=onepage&q&f=false ''Frederick the Great: A Military Life''], Routledge, 1988, ISBN 0415002761.
* Hamish M. Scott, [http://books.google.com.vn/books?id=lc8EMD0JYUAC&pg=PA42&dq=%22Frederick+the+Great#v=onepage&q=%22Frederick%20the%20Great&f=false ''The emergence of the Eastern powers, 1756-1775''], Cambridge University Press, 2001. ISBN 052179269X.
* [[Christopher M. Clark]], [http://books.google.com.vn/books?id=4LPODzLgDVEC&pg=PA217&dq=%22Frederick+II#v=onepage&q=%22Frederick%20II&f=false ''Iron Kingdom: The Rise and Downfall of Prussia, 1600-1947''], (2009), Harvard University Press, 2006. ISBN 0674023854.
* {{chú thích sách|first=Karin|last=Friedrich|authorlink=Karin Friedrich|url=http://books.google.com/?id=qsBco40rMPcC|title=The Other Prussia. Royal Prussia, Poland and Liberty, 1569–1772|isbn=978-0-521-58335-0|publisher=Cambridge University Press|year=2000|location=Cambridge|accessdate=2011-04-13}}
* Christopher Duffy, [http://books.google.com.vn/books?id=NfwNAAAAQAAJ&pg=PA152&dq=%22Prussia#v=onepage&q=%22Prussia&f=false ''The military experience in the age of reason''], Routledge, 1987. ISBN 0710210248.
* Haffner, Sebastian. ''The Rise and Fall of Prussia'' (1998) 192 pp
* Holborn, Hajo. ''A History of Modern Germany'' (3 vol 1959-64); col 1: The Reformation; vol 2: 1648-1840 [http://www.amazon.com/History-Modern-Germany-Hajo-Holborn/dp/0691007969/ref=sr_1_1?ie=UTF8&s=books&qid=1201323320&sr=8-1 online and text search]; vol 3. 1840-1945
* Jeep, John M. ''Medieval Germany: An Encyclopedia'' (2001), 928pp, 650 articles by 200 scholars cover A.D. 500 to 1500 [http://www.amazon.com/Medieval-Germany-Encyclopedia-Routledge-Encyclopedias/dp/0824076443 excerpt and text search]
* Christopher Duffy, [http://books.google.com.vn/books?id=KvQNAAAAQAAJ&printsec=frontcover&dq=%22Prussia#v=onepage&q=%22Prussia&f=false ''Red storm on the Reich: the Soviet march on Germany, 1945''], Routledge, 1991. ISBN 0415035899.
* Stanley Sandler, [http://books.google.com.vn/books?id=L_xxOM85bD8C&pg=PA296&dq=%22Frederick#v=onepage&q=%22Frederick&f=false ''Ground warfare: an international encyclopedia''], Tập 1. ABC-CLIO, 2002. ISBN 1576073440.
Dòng 345:
* R. Larry Todd, [http://books.google.com.vn/books?id=w_VTyeUpf-4C&printsec=frontcover&dq=%22Frederick+William+IV#v=onepage&q=%22Frederick%20William%20IV&f=false ''Mendelssohn and his world''], Princeton University Press, 1991. ISBN 0691027153.
* Jeffrey A. Bell, [http://books.google.com.vn/books?id=XB6ckxWOq9kC&pg=PR3&dq=%22William+IV#v=onepage&q=%22William%20IV&f=false ''Industrialization and imperialism, 1800-1914: a biographical dictionary''], Greenwood Publishing Group, 2002, ISBN 0313314519.
* Joseph A. Biesinger, [http://books.google.com.vn/books?id=exMn24SA7fMC&printsec=frontcover&dq=stubborn#v=onepage&q=stubborn&f=false ''Germany: a reference guide from the Renaissance to the present''], Infobase Publishing, 2006. ISBN 0816045216.
* John Adam Cramb, [http://books.google.com.vn/books?ei=Sx8vTfKRDY7CvgPwvP2sCQ&ct=result&id=guOfAAAAMAAJ&dq=%22heroism ''Germany and England''], E. P. Dutton & Co., 1914.
* Carl Cavanagh Hodge, [http://books.google.com.vn/books?id=-hOkx7Gi4OoC&pg=PA573&dq=%22glory%22+%2B+%22Prussia#v=onepage&q=%22glory%22%20%2B%20%22Prussia&f=false ''Encyclopedia of the Age of Imperialism, 1800-1914''], Tập 2, Greenwood Publishing Group, 2007, ISBN 0313334048.