Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Alaska (CB-1)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up using AWB
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Dablink|Về những tàu chiến Hoa Kỳ khác mang cùng tên, xin xem [[USS Alaska]].}}
 
 
{|{{Infobox ship begin}}
Dòng 61:
Khi lớp tàu của nó được đặt hàng vào ngày [[9 tháng 9]] năm [[1940]], nó đưa đến sự ngạc nhiên cho nhiều người vì Hải quân Mỹ chưa bao giờ hoàn tất một [[tàu chiến-tuần dương]] trong suốt lịch sử của nó, ngay cả vào giai đoạn cực thịnh của kiểu tàu này trong những năm [[1906]]- [[1916]].<ref name= Miller200>Miller, 200.</ref><ref group=A>Hai chiếc tàu sân bay nổi tiếng thuộc [[Lexington (lớp tàu sân bay)|lớp ''Lexington'']] trong Thế Chiến II [[USS Lexington (CV-2)|''Lexington'' (CV-2)]] và [[USS Saratoga (CV-3)|''Saratoga'' (CV-3)]] nguyên là một phần của một [[Lexington (lớp tàu chiến-tuần dương)|lớp tàu chiến-tuần dương]] vào năm 1916 bao gồm sáu chiếc. Tuân thủ [[Hiệp ước Hải quân Washington]], chúng được cải biến thành [[tàu sân bay]], trong khi bốn chiếc còn lại [[USS Constellation (CC-2)|''Constellation'' (CC-2)]], [[USS Ranger (CC-4)|''Ranger'' (CC-4)]], [[USS Constitution (CC-5)|''Constitution'' (CC-5)]] và [[USS United States (CC-6)|''United States'' (CC-6)]] đều bị hủy bỏ.</ref> Tuy nhiên, việc chế tạo được xúc tiến, và ba chiếc đầu tiên của lớp là ''Alaska'', ''[[USS Guam (CB-2)|Guam]]'' và ''[[USS Hawaii (CB-3)|Hawaii]]'' lần lượt được đặt lườn tại hãng [[New York Shipbuilding Corporation]] thuộc [[Camden]], [[New Jersey]] vào các ngày [[17 tháng 12]] năm [[1941]], [[2 tháng 2]] năm [[1942]] và [[20 tháng 12]] năm [[1943]].
 
''Alaska'' được hạ thủy vào ngày [[15 tháng 8]] năm [[1943]], và được đưa ra hoạt động 11 tháng sau đó vào ngày [[17 tháng 6]] năm [[1944]]. Sau nhiều lần chạy thử và một vài thay đổi, nó đi sang khu vực [[chiến tranh Thái Bình Dương|mặt trận Thái Bình Dương]] vào [[tháng mười hai|tháng 12]] năm đó, đến San Diego ngày [[12 tháng 12]]. Tiếp tục lên đường hướng sang Tây Thái Bình Dương, nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 58 tại [[Ulithi]] vào ngày [[10 tháng 2]] năm [[1945]], và toàn bộ lực lượng này tấn công các đảo chính quốc Nhật Bản. ''Alaska'' thực hiện việc hộ tống cho lực lượng này, đặc biệt là các tàu sân bay, trong suốt tháng tiếp theo; nhưng vào ngày [[19 tháng 3]], sau khi tàu sân bay ''[[USS Franklin (CV-13)|Franklin]]'' bị đánh trúng hai quả bom và bị buộc phải rút lui, một lực lượng hộ tống được hình thành bao gồm cả ''Alaska'' lẫn con tàu chị em ''Guam'' được hình thành để dẫn dắt con tàu sân bay hư hỏng quay trở lại Guam. ''Alaska'' tách khỏi lực lượng này vào ngày [[22 tháng 3]], tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ các tàu sân bay khi chúng đang tung ra các cuộc không kích nhắm vào Okinawa. Sau khi nả pháo xuống một hòn đảo nhỏ, nó lại lên đường hướng đến Ulithi, nơi nó gia nhập [[Đệ tam Hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Tam hạm đội]].
 
Trong hai tuần tiếp theo, nó bảo vệ các tàu sân bay của Đệ Tam hạm đội, sau đó ''Alaska'' cùng với tàu chị em ''Guam'' hướng đến Đông Hải tấn công các tàu bè Nhật Bản, và tiếp tục công việc này cho đến khi chiến tranh kết thúc. Sau khi thực hiện việc biểu dương lực lượng tại một số cảng, nó hỗ trợ cho việc đổ bộ lên miền Bắc Trung Quốc. Sau đó nó lên đường quay về [[Xưởng hải quân Boston]], đến nơi vào ngày [[18 tháng 12]]. Được chuẩn bị để cho ngừng hoạt động, nó được bố trí một chỗ neo đậu vĩnh viễn tại [[Bayonne]], [[New Jersey]]; và vào ngày [[13 tháng 8]] năm [[1946]] nó được đưa vào lực lượng dự bị. ''Alaska'' chính thức ngừng hoạt động vào ngày [[17 tháng 2]] năm [[1947]].
 
Cho dù có những đề nghị nhằm cải biến ''Alaska'' và tàu chị em với nó ''Guam'' thành những tàu tuần dương trang bị tên lửa điều khiển, ''Alaska'' vẫn bị rút khỏi Danh sách [[Đăng bạ Hải quân]] vào ngày [[1 tháng 6]] năm [[1960]] và được bán vào ngày [[30 tháng 6]] năm [[1960]] cho chi nhánh Lipsett của hãng Luria Brothers tại New York và được tháo dỡ sau đó.