Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Messerschmitt Bf 109”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q155639 Addbot
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 62:
Cánh làm phát sinh ra hai loại lực cản, loại [[lực cản ký sinh]] do hình dạng của cánh, trong khi [[lực cản phát sinh]] là hệ quả của lực nâng. Loại thứ nhất chiếm ưu thế ở tốc độ cao, khi mà dòng chảy không khí chạm phải cánh gây ra lực cản theo tỉ lệ bình phương với vận tốc máy bay. Loại thứ hai chiếm ưu thế ở tốc độ thấp, khi việc thiếu hụt dòng chảy không khí buộc cánh phải hướng vào dòng không khí ở một [[góc tấn]] lớn. Vì chiếc máy bay tiêm kích được thiết kế chủ yếu để hoạt động ở tốc độ cao, một kiểu cánh nhỏ hơn sẽ tối ưu hóa cho việc sử dụng ở tốc độ cao.
 
Mặt yếu của thiết kế này là tính năng bay ở tốc độ thấp sẽ bị ảnh hưởng, vì kiểu cánh nhỏ hơn đòi hỏi dòng không khí lớn hơn tạo ra đủ lực nâng để có thể tiếp tục bay được. Để khắc phục vấn đề này, chiếc Bf 109 bao gồm các thiết bị tăng cường lực nâng tiên tiến trên cánh, bao gồm các [[cánh mép]] tự động giương ra ở mép trước cánh, và các[[cánh nắp]] lồi khá lớn ở mép sau cánh. Nó cũng bao gồm các [[cánh tà]] sẽ giương ra khi các cánh nắp hạ xuống, nhờ đó gia tăng diện tích cánh nắp hiệu quả một khi chúng được giương ra. Khi được dùng, các thiết bị này giúp gia tăng có hiệu quả hệ số lực nâng, làm cho chúng có tính năng bay tốt hơn ở tốc độ thấp và góc tấn lớn.
 
Một khuyết điểm khác của [[áp lực cánh]] lớn là chiếc máy bay tiêm kích sẽ đòi hỏi nhiều động lực hơn để cơ động. Với công suất các kiểu động cơ đang sẵn có bị giới hạn, điều đó có nghĩa là chiếc Bf 109 không thể lượn vòng hẹp như những thiết kế khác có cánh lớn hơn. Các thiết bị tăng cường lực nâng có thể bù đắp phần nào vấn đề này, nhưng chúng cũng làm tăng lực cản và làm chiếc máy bay chậm hơn tương ứng. Cho rằng độ cơ động là ưu tiên cuối cùng trong các tính năng mà RLM mong muốn, Messerschmitt đã tin tưởng rằng các lợi điểm mang lại đáng kể hơn là các khiếm khuyết phải có.
Dòng 101:
Kiểu Bf '''109A''' "Anton" là phiên bản đầu tiên của chiếc Bf 109. Vũ khí trang bị được dự định chỉ bao gồm hai súng máy [[MG 17]] 7,92&nbsp;mm gắn trước mũi trở nên quá yếu, trong khi một khẩu súng máy thứ ba bắn xuyên qua trục cánh quạt lại không thỏa mãn yêu cầu. Chiếc V4 và một số chiếc '''A-0''' được trang bị động cơ Jumo 210B công suất 640 mã lực vận hành một bộ cánh quạt hai cánh có bước góc cánh cố định. Ngay khi kiểu động cơ Jumo 210D công suất 670 mã lực được sẵn sàng, việc sản xuất được chuyển ngay sang loại động cơ mới. Phiên bản A-0 không phải là một kiểu đồng nhất khi có nhiều thay đổi được nhận thấy. Các thay đổi bên ngoài dễ nhận thấy bao gồm động cơ, buồng lái và các khe/lỗ làm mát súng máy, cũng như là bộ làm mát dầu động cơ được thay đổi vị trí nhiều lần để tránh bị quá nóng. Nhiều chiếc phiên bản Bf 109 A-0 phục vụ cùng [[Binh đoàn Condor]] và thường bị nhận lầm là thuộc phiên bản Bf 109 B, chúng có thể đã từng hoạt động tại [[Tây Ban Nha]] với các ký hiệu chiến thuật từ 6-1 đến 6-16. Một chiếc kiểu A-0, ký hiệu 6-15, bị hết nhiên liệu và bị buộc phải hạ cánh bên kia giới tuyến của đối phương. Nó bị [[Lực lượng Cộng hòa Tây Ban Nha|Lực lượng Cộng hòa]] bắt được vào ngày [[11 tháng 11]] năm [[Hàng không năm 1937|1937]] và sau đó được chuyển sang [[Liên Xô]] để nghiên cứu<ref>[http://moskittech.ru/eng/myze/Bf-109B-1/Bf-109B-1.htm Bf 109B]</ref>. Chiếc 6-15 cho thấy có nhiều cải tiến từ chương trình sản xuất phiên bản Bf 109B và được chuẩn bị để trang bị bộ cánh quạt có bước góc cánh thay đổi được.
 
Theo tài liệu lưu trữ của RLM<ref>RLM Flugzeugbeschaffungs-Programm Nr. 7a, 01.04.1938 (Giao hàng cho đến 30 tháng 11 năm 1937)</ref> có 22 máy bay V4 được đặt hàng và giao như là nguyên mẫu của phiên bản A.
 
Phiên bản chiếc Bf 109 được sản xuất hàng loạt đầu tiên, kiểu Bf '''109B''' "Bruno", được trang bị động cơ Jumo 210D công suất 660 mã lực (493&nbsp;kW) dẫn động một bộ cánh quạt hai cánh có bước góc cánh cố định. Trong quá trình sản xuất kiểu B-1 một loại cánh quạt có bước góc cánh thay đổi được đưa vào sử dụng và thường được tái trang bị cho những chiếc máy bay sản xuất trước đó, chúng được gọi một cách không chính thức là kiểu B-2. Cả hai phiên bản đều tham gia chiến đấu cùng [[Binh đoàn Condor]] trong cuộc [[Nội chiến Tây Ban Nha]], trong quá trình mà thực tế chiến đấu cho thấy vũ khí trang bị vẫn chưa đủ mạnh. Nhiều máy bay được sản xuất với một súng máy gắn trên động cơ nhưng chúng tại tỏ ra rất không tin cậy, hầu như là do sự rung động của động cơ và quá nóng. Vì vậy chiếc Bf 109 V8 được cấu tạo để thử nghiệm gắn thêm hai súng máy trên cánh. Trên kiểu nguyên mẫu V9 tiếp nối cả hai khẩu súng máy trên cánh được thay bằng các khẩu pháo [[MG FF]] 20&nbsp;mm.
 
Có tổng cộng 341 chiếc Bf 109B thuộc mọi biến thể được chế tạo bởi Messerschmitt, [[Fieseler]] và Erla.<ref name="RLM Nr.10">RLM Flugzeugbeschaffungs-Programm Nr. 10 von 01.01.1939 (Giao hàng cho đến 31 tháng 12 năm 1938)</ref>
 
Phiên bản ngắn hạn Bf '''109C''' "Caesar" được trang bị động cơ Jumo 210G công suất 690 mã lực với hệ thống phun nhiên liệu trực tiếp. Một thay đổi quan trọng khác là cánh được gia cố giờ đây có thể mang thêm hai khẩu súng máy lên tổng cộng là bốn khẩu MG 17. Kiểu '''C-1''' là phiên bản sản xuất hàng loạt, trong khi kiểu '''C-2''' là một phiên bản thử nghiệm với súng máy gắn trên động cơ. Kiểu '''C-3''' được dự định trang bị khẩu pháo [[MG FF]] 20&nbsp;mm thay cho hai khẩu súng máy MG 17 trên cánh, nhưng người ta không rõ đã có bao nhiêu chiếc C-3 (nếu có) được chế tạo. Kiểu '''C-4''' được dự định trang bị khẩu pháo MG FF trên động cơ.
 
Có tổng cộng 58 chiếc Bf 109C thuộc mọi biến thể được chế tạo bởi Messerschmitt.<ref name="RLM Nr.10">RLM Flugzeugbeschaffungs-Programm Nr. 10, 01.01.1939 (Giao hàng cho đến 31 tháng 12 năm 1938)</ref>
Dòng 115:
=== Bf 109 D "Dora" ===
[[Tập tin:Bf109C 3Seiten neu.jpg|nhỏ|Messerschmitt Bf 109 D]]
Được phát triển từ những chiếc nguyên mẫu V10 và V13, kiểu Dora là phiên bản chuẩn của máy bay Bf 109 phục vụ cùng [[Không quân Đức]] trong giai đoạn ngay trước Thế Chiến II. Dù vậy, phiên bản này chỉ có những hoạt động hạn chế trong chiến tranh, vì tất cả 235 chiếc Dora đang phục vụ lúc bắt đầu [[cuộc tấn công Ba Lan (1939)|chiến dịch Ba Lan]] đã nhanh chóng được rút khỏi phục vụ ở tuyến đầu và được thay thế bởi phiên bản Bf 109E, ngoại trừ một số đơn vị [[máy bay tiêm kích ban đêm|tiêm kích bay đêm]], nơi mà một số chiếc tiếp tục hoạt động cho đến đầu năm [[Hàng không năm 1940|1940]]. Các biến thể bao gồm các kiểu '''D-0''' và '''D-1''', cả hai đều được gắn động cơ Junkers Jumo 210D và được trang bị hai súng máy [[MG 17]] 7,92&nbsp;mm trên cánh và hai súng máy MG 17 trước mũi. Kiểu '''D-2''' là một phiên bản thử nghiệm với một súng máy gắn trên động cơ nhưng cũng bị thất bại lần nữa. Kiểu '''D-3''' cũng tương tự như kiểu C-3 với hai khẩu pháo MG FF 20&nbsp;mm trên cánh.
 
Có tổng cộng 647 chiếc Bf 109D thuộc mọi biến thể được chế tạo bởi Focke-Wulf, Erla, Fieseler, Arado và AGO.<ref name="RLM Nr.18"/> Messerschmitt được ghi nhận chỉ chế tạo bốn chiếc Bf 109D, có thể là loạt D-0 tiền sản xuất, trong khi việc sản xuất hàng loạt được nhượng quyền cho các nhà sản xuất khác. Nhiều chiếc Bf 109D được bán sang [[Hungary]] và [[Thụy Sĩ]].
Dòng 126:
Để thử nghiệm kiểu động cơ mới [[Daimler-Benz DB 601|DB601A]] có công suất 1.085 mã lực (809&nbsp;kW), có thêm hai chiếc nguyên mẫu là chiếc V14 và V15 được chế tạo và chỉ khác nhau về vũ khí trang bị. Chiếc V14 được trang bị hai súng máy [[MG 17]] 7,92&nbsp;mm phía trên động cơ và hai khẩu pháo [[MG FF]] 20&nbsp;mm trên cánh, trong khi chiếc V15 trang bị hai súng máy MG 17 trên động cơ và một pháo MG FF ''Motorkanone'' bắn xuyên qua trục cánh quạt. Sau những cuộc bay thử nghiệm, chiếc V14 được xem là có triển vọng hơn và một lô mười chiếc E-0 tiền sản xuất được đặt hàng. Những lô máy bay thuộc biến thể E-1 và E-3 được đưa sang Tây Ban Nha để đánh giá, và chúng lần đầu tiên được đưa ra hoạt động vào giai đoạn cuối cùng của cuộc Nội chiến Tây Ban Nha.
 
Phiên bản sản xuất của kiểu '''E-1''' giữ lại hai khẩu súng máy MG 17 7,92&nbsp;mm trên động cơ và có hai súng máy MG 17 trên cánh. Sau này nhiều chiếc được cải biến lên tiêu chuẩn vũ khí của kiểu E-3. Kiểu '''E-1B''' là một lô nhỏ E-1 được sản xuất và là kiểu máy bay Bf 109 tiêm kích-ném bom ([[tiếng Đức]] gọi là ''Jagdbomber'', nhưng thường gọi tắt là '''Jabo''') lần đầu tiên được đưa ra sử dụng. Chúng được trang bị đế mang bom ETC 250 có thể mang một bom 250&nbsp;kg, hoặc hai đế ETC 50 mang một bom 50&nbsp;kg dưới mỗi cánh. Kiểu E-1 cũng được trang bị bộ ngắm súng Reflexvisier "Revi", và mang theo một bộ thu phát radio tầm ngắn FuG 7 ''Funkgerät 7'' có tầm hoạt động hiệu quả khoảng 30-35 dặm.
 
Có tổng cộng 1.183 chiếc phiên bản E-1 được chế tạo, 110 chiếc trong số đó là kiểu E-1/B.<ref name="RLM Nr.18">RLM Lieferplan Nr. 18 Ausgabe 3, 01.11.1940 (Giao hàng cho đến 31 tháng 10 năm 1940)</ref>
Dòng 132:
Biến thể '''E-2''' không được sản xuất vì những nguyên nhân không được biết rõ, có thể là do một nỗ lực khác bị thất bại trong việc trang bị súng máy trên động cơ hay pháo ''Motorkanone''.
 
Để cải tiến tính năng bay của kiểu Bf 109E, hai chiếc nguyên mẫu thực sự cuối cùng được chế tạo là chiếc V16 và chiếc V17. Chúng có một số cải tiến về cấu trúc và vũ khí trang bị mạnh hơn. Những chiếc nguyên mẫu này là cơ sở của phiên bản Bf '''109 E-3'''. Chúng được trang bị hai súng máy MG 17 trên động cơ và một pháo MG FF trên mỗi cánh.<ref name="hannu">Hannu Valtonen — Messerschmitt Bf 109 ja saksan sotatalous</ref> Kiểu E-3 cũng nhận được vỏ giáp bổ sung, thường có thùng nhiên liệu tự hàn kín và trên một số chiếc được trang bi loại động cơ cải tiến [[Daimler-Benz DB 601|DB601Aa]] công suất 1.159 mã lực (864&nbsp;kW).
 
Có tổng cộng 1.276 chiếc phiên bản E-3 được chế tạo, 75 chiếc trong số đó là phiên bản xuất khẩu '''E-3a''' không có các thiết bị được xếp loại là bí mật.<ref name="RLM Nr.18"/>
 
Kiểu E-3 được thay thế bởi phiên bản '''E-4''' với nhiều khung máy bay bắt đầu được nâng cấp lên tiêu chuẩn của kiểu E-4 vào lúc khởi đầu [[Trận chiến Anh Quốc]]. Chúng khác biệt ở nhiều chi tiết nhỏ, đáng kể nhất là khẩu pháo [[MG FF|MG-FF/M]] gắn trên cánh và vỏ giáp bảo vệ đầu phi công được cải tiến. Khẩu pháo MG FF/M bắn ra một loại đầu đạn mới được cải tiến vỏ đạn và được gọi là ''Minengeschoß'' (vỏ mìn) được làm bằng thép cán (tương tự như cách mà [[đạn (súng cầm tay)|đạn]] được làm) thay vì được đúc như kiểu thông thường. Điều này cho phép có một vỏ đầu đạn mỏng nhưng chắc hơn, chỗ trống bên trong lớn hơn chứa được nhiều thuốc nổ hơn so với thông thường. Loại đạn mới đòi hỏi phải cải tiến cơ cấu của khẩu pháo MG FF vì có đặc tính giật khác biệt, đưa đến kiểu pháo mới '''MG FF/M''' (tên gọi đặc biệt '''/M''' này được cho là phiên bản ''Motorkanone'' của khẩu pháo MG FF).
 
Nóc buồng lái cũng được thiết kế lại thành kiểu "vuông vắn" dễ chế tạo hơn, và giữ nguyên gần như không thay đổi cho đến khi đưa ra kiểu nóc buồng lái 'Erla' trên phiên bản G-6 vào mùa Thu năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. Kiểu E-4 trở thành căn bản cho mọi cải tiến cho phiên bản Bf 109 E sau đó. Một số chiếc E-4 và các kiểu sau đó được gắn động cơ cải tiến [[Daimler-Benz DB 601|DB601N]] hoạt động trên tầm cao công suất 1.159 mã lực (864&nbsp;kW) dẫn đến thay đổi nhỏ trên tên gọi như E-4/N, lần đầu tiên xuất hiện vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1940|1940]]. Kiểu E-4 cũng có phiên bản tiêm kích-ném bom với thiết bị tương tự như chiếc E-1/B trước đây. Chúng được biết đến dưới tên gọi '''E-4/B''' (gắn động cơ DB 601Aa) và '''E-4/BN''' (gắn động cơ DB 601N).
 
Có tổng cộng 496 thuộc mọi phiên bản E-4 được chế tạo, trong đó có 250 chiếc E-4, 20 chiếc E-4/N, 211 chiếc E-4/B và 15 chiếc E-4/BN.<ref name="RLM Nr.18"/>
Dòng 196:
=== Bf 109G "Gustav" ===
[[Tập tin:Bf109G 3Seiten neu.jpg|nhỏ|Messerschmitt Bf 109 G-5]]
Kiểu Bf 109 G được phát triển với những thay đổi nhỏ trên khung máy bay phiên bản F, trang bị động cơ [[Daimler-Benz DB 605]] công suất 1.475 PS (1.454 mã lực, 1085&nbsp;kW). Các thay đổi bao gồm cấu trúc cánh được tăng cường, một kích chắn gió chống đạn bên trong, bổ sung thêm vỏ giáp bằng hợp kim nhôm nhẹ cho thùng nhiên liệu và bộ tản nhiệt. Các cải tiến bao gồm cấu trúc cánh được tăng cường, một kính chắn gió chống đạn bên trong, bổ sung thêm vỏ giáp bằng hợp kim nhôm nhẹ cho thùng nhiên liệu và bộ tản nhiệt; các nắp đậy cho hốc chứa bánh đáp ban đầu cũng được dự trù, đổi chúng sang dạng vuông; bổ sung thêm hai lỗ hút gió nhỏ để làm mát thêm cho các bu-gi đánh lửa. Phiên bản G được thiết kế linh hoạt để có thể đảm nhiệm các vai trò khác nhau sử dụng các bộ nâng cấp ngoài mặt trận được gọi là ''Rüstsatze''. Kiểu máy bay tiêm kích đánh chặn tầm cao đặc biệt được trang bị bộ tăng lực tầm cao [[GM 1]] và buồng lái được điều áp cũng được sản xuất.
 
Bản thân kiểu động cơ "mới" [[Daimler-Benz DB 605]] là một phát triển từ kiểu động cơ DB 601E được sử dụng trên phiên bản Bf 109 F-4 trước đó bằng cách nâng cao và cải tiến các chi tiết. Kiểu động cơ DB605 gặp phải những vấn đề về độ tin cậy trong năm đầu tiên hoạt động. Điều này đã buộc các đơn vị Không quân Đức phải giới hạn công suất hoạt động ở mức 1.310 PS (1.292 mã lực, 975&nbsp;kW) ở mức vòng quay động cơ 2.600 rpm và áp lực ống góp 1,3 ata, cho đến [[tháng mười|tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]], khi công suất tối đa 1.475 PS (1.454 mã lực, 1.085&nbsp;kW) ở mức vòng quay động cơ 2.800 rpm và áp lực ống góp 1,42 ata được chấp thuận cho sử dụng.
 
Những chiếc '''Bf 109G''' đời đầu trông gần giống kiểu Bf 109 F-4 và cũng được trang bị cùng loại vũ khí căn bản, tuy nhiên trên mọi chiếc ''Gustav'', vũ khí có thể được tăng cường sử dụng các bộ nâng cấp ngoài mặt trận ''Rüstsatz'' VI, như là hai pháo MG 151/20 20&nbsp;mm bố trí trong những cụm dạng xuồng khí động học dưới cánh. Từ mùa Xuân năm [[Hàng không năm 1943|1943]], phiên bản G bắt đầu thấy có các bầu trên nắp động cơ khi các khẩu súng máy MG 17 7,92&nbsp;mm được thay thế bằng súng máy hạng nặng [[MG 131]] 13&nbsp;mm (từ kiểu '''G-5''' trở đi) do loại này có [[khóa nòng]] lớn hơn, và trên cánh (do có bánh đáp lớn hơn), khiến cho kiểu Bf 109G-6 có được tên lóng là "Cái Bầu" ([[tiếng Đức]]: "Die Beule"). Kiểu Gustav còn được liên tục cải tiến: tầm nhìn của buồng lái, hỏa lực dưới dạng các khẩu pháo MK 108 30&nbsp;mm được thêm vào thiết kế căn bản vào năm [[Hàng không năm 1943|1943]]; một bộ siêu tăng áp mới mở rộng dành cho loại động cơ DB605, cánh ổn định đuôi lớn hơn (từ kiểu G-5 trở đi), bộ tăng lực MW-50 vào năm [[Hàng không năm 1944|1944]]. Đã có ý kiến cho là trọng lượng thêm vào của kiểu động cơ mới và các vũ khí nặng hơn đã ảnh hưởng ngược đến đặc tính điều khiển của chiếc Bf 109, đặc biệt là khi chúng đã có sẵn một áp lực cánh cao. Trong khi về mặt kỹ thuật ý kiến trên là đúng, có một phần không công bằng vì các phân tích cho thấy rằng chỉ có một sự gia tăng trọng lượng nhỏ do việc phát triển, tương đương với xu hướng phát triển của những chiếc máy bay tiêm kích tại Tây Âu.
Dòng 206:
Với chiếc Gustav, một số phiên bản đặc biệt được đưa ra để phù hợp cho các vai trò chuyên biệt khác nhau, trong số đó có thể nêu ra [[máy bay tiêm kích-trinh sát tầm xa]] và [[máy bay tiêm kích đánh chặn]]. Kiểu đầu tiên có khả năng mang hai thùng nhiên liệu phụ 300 L vứt được trên cánh; kiểu sau có buồng lái được điều áp tạo sự thoải mái cho phi công và bộ tăng lực [[GM-1]] sử dụng nitrous oxide để hoạt động ở tầm cao. Kiểu thứ hai có khả năng gia tăng công suất động cơ thêm 300 mã lực ở tầm cao trong một thời gian ngắn, và có tính năng bay ở tầm cao vượt hơn mọi máy bay tiêm kích Đồng Minh đang hoạt động trong giai đoạn [[Hàng không năm 1942|1942]]-[[Hàng không năm 1943|43]].
Kiểu '''G-1''' là biến thể đầu tiên của phiên bản G được sản xuất vào đầu năm [[Hàng không năm 1942|1942]] với một buồng lái được điều áp và bộ tăng lực [[GM-1]] sử dụng nitrous oxide, rồi được bổ sung bởi biến thể '''G-2''' không có buồng lái điều áp và bộ tăng lực vài tuần lễ sau đó. Có 167 chiếc biến thể G-1 được chế tạo từ [[tháng năm|tháng 5]] đến [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]], và 1.586 chiếc G-2 được chế tạo từ [[tháng sáu|tháng 6]] đến [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]]; cùng một chiếc G-2 được chế tạo tại Győr, [[Hungary]] vào năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. tốc độ tối đa của kiểu G-2 là 537&nbsp;km/h (356&nbsp;mph) ở độ cao mặt biển và đến 660&nbsp;km/h (410&nbsp;mph) ở độ cao 7.000&nbsp;m (22.966&nbsp;ft) với áp lực ống góp bị giới hạn ở mức 1,3 ata. Tính năng bay của kiểu G-1 cũng tương đương, nhưng hệ thống tăng lực [[GM-1]] giúp cho nó có thể đạt được tốc độ 680&nbsp;km/h (422&nbsp;mph) ở độ cao 12.000&nbsp;m (39.370&nbsp;ft).
 
Vào [[tháng chín|tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]] kiểu '''G-4''' xuất hiện. Nó giống kiểu G-2 về mọi mặt kể cả tính năng bay, ngoại trừ hệ thống radio liên lạc V.H.F. FuG 16 được cải tiến rất nhiều. Cho đến [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]], đã có 1.242 chiếc G-4 được sản xuất, và có thêm bốn chiếc được sản xuất tại Győr và tại xưởng của WNF vào nữa cuối năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. Một phiên bản có buồng lái điều áp '''G-3''' cũng được chế tạo, nó tương tự như kiểu G-1 ngoại trừ hệ thống radio liên lạc V.H.F. FuG 16. Chỉ có 50 chiếc biến thể này được sản xuất từ [[tháng một|tháng 1]] đến [[tháng hai|tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]].
Vào [[tháng hai|tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]] kiểu '''G-6''' được giới thiệu với kiểu súng máy [[MG 131]] 13&nbsp;mm được sử dụng thay thế cho loại MG 17 7,92&nbsp;mm. Nhìn bên ngoài thay đổi này làm xuất hiện hai chỗ lồi bên trên các khẩu súng máy và làm giảm tốc độ máy bay đến 9&nbsp;km/h (5,6&nbsp;mph).
 
Có trên 12.000 khung máy bay đã được sản xuất tính cho đến năm [[Hàng không năm 1944|1944]]; con số chính xác không thể nào xác định được do có nhiều phiên bản và chế tạo lại. Kiểu '''G-5''' tương đương như kiểu G-6 với buồng lái được điều áp, và đã có 475 chiếc được chế tạo từ [[tháng năm|tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]] đến [[tháng tám|tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]]. Kiểu '''G-5/AS''' là biến thể đầu tiên được trang bị loại động cơ DB 605AS cho các phi vụ ở tầm cao, trong khi các biến thể của các kiểu G-5 và G-6 được trang bị bộ tăng lực [[GM-1]] được gán thêm tên gọi /U2.
Dòng 216:
Biến thể '''G-6/U4''' được trang bị khẩu pháo ''Motorkanone'' [[MK 108]] 30&nbsp;mm bắn xuyên qua trục cánh quạt thay cho các khẩu pháo MG 151/20 20&nbsp;mm. Kiểu G-6 vào năm [[Hàng không năm 1943|1943]] rất thường được thấy gắn thêm các bộ nâng cấp dùng để mang bom hay thùng nhiên liệu phụ vứt được, được sử dụng như máy bay tiêm kích bay đêm hay để tăng cường hỏa lực bằng cách bổ sung thêm rocket hay cụm súng gắn ngoài. Cũng trong năm [[Hàng không năm 1943|1943]], một số cải tiến dần dần được giới thiệu: vỏ giáp bằng kính tựa đầu ("Galland Panzer") (đầu năm 1943), nóc buồng lái trong suốt "Erla Haube" (mùa Thu năm 1943) giúp cải thiện tầm nhìn đặc biệt là về phía sau, và một phần đuôi cao hơn giúp cải thiện độ ổn định ở tốc độ cao. Việc áp dụng ống phóng cối/rocket WGr. 21&nbsp;cm dưới cánh và pháo [[MK 108]] 30&nbsp;mm giúp tăng cường hỏa lực. Một số lô sản xuất của chiếc Gustav được trang bị các cánh tà Flettner để làm giảm lực cản ở tốc độ cao. Các thiết bị radio/dẫn đường tiên tiến cũng được áp dụng.
[[Tập tin:me109g cracow aviation museum.jpg|nhỏ|Chiếc Bf 109G-6 trưng bày tại Bảo tàng Hàng không Ba Lan ở Kraków]]
Các biến thể tiếp theo của phiên bản Bf 109G về căn bản là cải biến dựa trên cơ sở kiểu G-6. Vào đầu năm 1944, các kiểu động cơ mới, như là kiểu DB 605AS với bộ tăng áp lớn hơn nhằm cải thiện tính năng bay ở tầm cao, hay kiểu DB 605AM với bộ [[động cơ phun nước|phun nước]] MW-50 cải thiện tính năng bay ở tầm trung và tầm thấp, hoặc kiểu DB 605ASM với cả hai tính năng trên được giới thiệu cho phiên bản Bf 109 G-6. Tốc độ tối đa của kiểu G-5/G-6 đạt đến 500–510&nbsp;km/h (311-317&nbsp;mph) ở độ cao mặt biển và đến 625–630&nbsp;km/h (388-391&nbsp;mph) ở độ cao 6.600&nbsp;m (21.654&nbsp;ft) với áp lực ống góp bị giới hạn ở mức 1,3 ata. Khi sử dụng áp lực ống góp tối đa 1,42 ata, tốc độ tối đa đạt đến 530&nbsp;km/h (329&nbsp;mph) và 640&nbsp;km/h (398&nbsp;mph) tương ứng (các số liệu này không sử dụng các tính năng tăng tốc MW-50 hay GM-1).
 
Kiểu '''G-8''' là một phiên bản trinh sát chuyên dụng dựa trên kiểu G-6. Chiếc G-8 thường chỉ trang bị pháo ''Motorkanone'' hay súng máy trên nắp động cơ, và có nhiều tiểu biến thể khác nhau dành cho các phi vụ trinh sát tầm ngắn hay tầm xa, với rất nhiều khác biệt về loại máy ảnh và thiết bị radio liên lạc được sử dụng.
 
Kiểu '''G-14''', bắt đầu xuất hiện từ giữa năm [[Hàng không năm 1944|1944]], về căn bản là một kiểu Bf 109 G-6 với các nâng cấp đã nêu trên được chuẩn hóa, và với bộ phun nước/methanol MW-50 giúp tăng công suất động cơ lên 1.800 mã lực trở thành một thiết bị tiêu chuẩn. Các biến thể tầm cao của kiểu G-14 được gắn động cơ DB 605ASM và được đặt tên là G-14/AS. Đã có xu hướng ngày càng tăng cường sử dụng gỗ trên các chi tiết ít quan trọng như cánh đuôi, ghế ngồi của phi công hay bảng điều khiển, không chỉ do thiếu hút các vật tư chiến lược như nhôm như thường được kể, mà còn do việc huy động công nghiệp đồ gỗ tham gia vào quá trình sản xuất giúp giải phóng bớt năng lực sản xuất của ngành công nghiệp kim loại.
 
Kiểu '''G-10''' là một nỗ lực nhằm bắt kịp tính năng của kiểu Bf 109 G-6/G-14 đã được khẳng định, với kiểu động cơ mới DB 605D mạnh mẽ hơn mà chỉ gây gián đoạn tối thiểu cho dây chuyền sản xuất. Cho dù được đặt tên như vậy, G-10 chỉ được đưa vào hoạt động sau kiểu G-14 và gần tương đương kiểu K-4 vào [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]]. Những chiếc kiểu G-10 sản xuất đời đầu sử dụng thân máy bay lấy từ dây chuyền sản xuất kiểu G-14, có thể đây là nguồn gốc của sự lẫn lộn khỉ nhiều tác giả vẫn tin rằng nhiều chiếc G-10 được chế tạo dựa trên các thân máy bay được tái sử dụng. Thay đổi dễ nhận biết nhất là việc sử dụng một các tiêu chuẩn kiểu nóc buồng lái "Erla-Haube", đôi khi được gọi nhầm là kiểu "Galland". Kiểu nóc buồng lái này cải thiện tầm nhìn của phi công bằng cách giảm thiểu số trụ chống, vốn thường bị phê phán trước đây. Kiểu G-10 được sản xuất với số lượng đáng kể, với khoảng 2.600 chiếc G-10 được sản xuất cho đến khi chiến tranh kết thúc. Các kiểu Bf 109 G-10, G-5 trang bị động cơ AS, G-6 và G-14 cũng như kiểu K-4 được cải tiến bầu che khóa nòng của khẩu súng máy MG 131 gắn trên nắp động cơ, có dạng kéo dài ra và suôn thẳng hơn nhưng khó nhận thấy từ phía trên các tấm che nắp động cơ, vì bộ siêu tăng áp lớn hơn dành cho động cơ đòi hỏi phải thiết kế lại nắp động cơ.
 
Một biến thể khác tương tự cũng được sản xuất là kiểu Bf '''109 G-12'''. Đây là một phiên bản Bf 109 huấn luyện hai chỗ ngồi và hiếm khi được trang bị nhiều hơn hais úng máy trên nắp động cơ. Chỗ trống cần thiết cho buồng lái thứ hai có được bằng cách giảm trữ lượng nhiên liệu bên trong chỉ còn 240 L nên chúng gần như luôn luôn phải sử dụng thùng nhiên liệu phụ 300 L vứt được như là một trang bị tiêu chuẩn. Kiểu G-12 được chế tạo sử dụng thân máy bay của nhiều biến thể G khác nhau, một số chiếc dựa trên kiểu G-2 nhưng nhiều chiếc khác được chế tạo bằng thân G-1, G-4 và G-6 được chế lại hay sửa chữa.
 
''' Các tiểu phiên bản và biến thể Bf 109G '''
 
Các biến thể căn bản có thể được trang bị các bộ bổ sung tiêu chuẩn "Rüstsatz" ngoài mặt trận, trong thực tế có nghĩa là mang thêm một số loại trang bị bổ sung như là thùng nhiên liệu phụ vứt được, bom hoặc pháo vào các điểm gắn tiêu chuẩn, hiện diện trên tất cả các máy bay được sản xuất. Máy bay còn có thể được cải biến tại xưởng với các bộ cải biến ''Umrüst-bausatz'', gọi tắt là '''Umbau''', hay bằng cách thêm các thiết bị bổ sung, được gọi là ''Rüstzustand'', để biến cải khung máy bay căn bản cho các vai trò đặc biệt - ví dụ như một máy bay tiêm kích trinh sát hay một máy bay tiêm kích hoạt động trong thời tiết xấu.
 
Các bộ nâng cấp Rüstsatz được đặt tên bằng ký tự R và một [[số La Mã]]. Bộ nâng cấp ''Rüstsatz'' khi được trang bị không làm thay đổi tên gọi của chiếc máy bay. Ngược lại, các bộ nâng cấp Umbau hay Rüstzustand được nhận biết bằng ký tự /R hay /U cùng một [[chữ số Ả Rập|số Ả-rập]] phía sau tên máy bay, ví dụ như Bf 109 G-10/'''U4'''
 
'''Các bộ nâng cấp Rüstsatz dành cho Bf 109G'''
Dòng 291:
=== Bf 109H ===
[[Tập tin:Bf109H 3Seiten neu.jpg|nhỏ|Messerschmitt Bf 109 H-1]]
Phiên bản Bf '''109H''' được dự định là một kiểu máy bay tiêm kích tầm cao được phát triển từ loạt Bf 109F. [[Sải cánh]] được tăng lên đến 11,92 m, cánh ổn định đuôi một lần nữa lại có trụ chống tựa vào thân và được mở rộng. Tốc độ tối đa đạt đến 750&nbsp;km/h ở độ cao 10.100 m. Một số lượng nhỏ kiểu Bf 109 H-1 được chế tạo và đã thực hiện nhiều chuyến bay tại Pháp. Việc phát triển các biến thể ''Bf 109 H-2'' và ''H-5'' đã được trù định, trước khi toàn bộ phiên bản H bị hủy bỏ do các vấn đề rung động cánh.<ref name="Fesit 1993, p. 45.">Fesit 1993, p. 45.</ref>
 
* '''H-0''' Máy bay tiền sản xuất, được chế tạo lại từ kiểu F-4/Z, trang bị động cơ DB 601E với bộ tăng lực GM-1.
Dòng 298:
=== Bf 109K "Kurfürst" ===
[[Tập tin:Bf109K 3Seiten neu.jpg|nhỏ|Messerschmitt Bf 109 K-4]]
Phiên bản Bf '''109K''' "Kurfürst" là sự tiến hóa cuối cùng của kiểu máy bay Bf 109. Loạt K là sự đáp ứng cho tình trạng phức tạp của một loạt các phiên bản, các biến thể, các bộ nâng cấp và các cải biến trong xưởng máy của chiếc Bf 109 gây bối rối, vốn làm cho việc sản xuất và bảo trì trở nên phức tạp và tốn kém, một điều mà nước Đức khó chịu đựng được vào giai đoạn sau của cuộc chiến. RLM đã yêu cầu Messerschmitt hợp lý hóa việc sản xuất kiểu Bf 109, cũng cố các loại linh kiện, kiểu máy bay... để sản xuất một kiểu tiêu chuẩn duy nhất với sự tráo đổi tốt hơn các linh kiện và thiết bị. Điều này đã được bắt đầu với những biến thể sau của loạt phiên bản G, nhưng mọi thứ lại đi theo những hướng đối nghịch nhau. RLM lại yêu cầu Messerschmitt cố gắng hơn trong thực tế, và đó là lý do phiên bản K ra đời. Công việc trên phiên bản mới được bắt đầu vào năm [[Hàng không năm 1943|1943]], và chiếc nguyên mẫu đã sẵn sàng vào mùa Thu năm đó. Công việc sản xuất hàng loạt được bắt đầu vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]] vì những sự trì hoãn do những thay đổi liên tục và kiểu động cơ mới DB605D. Việc đưa ra hoạt động được bắt đầu vào [[tháng mười|tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], và một số lượng lớn - khoảng 200 chiếc - được giao cho các đơn vị ngoài mặt trận vào cuối tháng đó. Cho đến cuối [[tháng một|tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]], mặc dù dưới tình trạng chiến đấu liên tục ác liệt, trên 300 chiếc K-4 - khoảng một phần tư tổng số Bf 109 sản xuất - được đăng ký đưa ra các đơn vị Không quân Đức ngoài tuyến đầu.
 
Trên các phiên bản được đề nghị K-6, K-8, K-10 và K-14 vũ khí trang bị có một số thay đổi. Chúng giữ lại hai khẩu súng máy MG 131 gắn trên động cơ cùng một khẩu pháo MK 108 trên mỗi cánh và một khẩu pháo MK 108 ''Motorkanone'' gắn trên động cơ. Kiểu K-14 được dự định trang bị động cơ có tính năng đặc biệt DB605L và bộ cánh quạt bốn cánh.
 
Chỉ có biến thể '''K-4''' tham gia hoạt động với số lượng đáng kể, với khoảng 1.700 chiếc được các xưởng giao hàng cho đến khi chiến tranh kết thúc. K-4 trang bị động cơ tương đương DB605L, một phiên bản động cơ DB605 với bộ siêu tăng áp hai tầng nhưng không có các cải tiến khác, và một bộ cánh quạt ba cánh tiêu chuẩn. Vũ khí trang bị cho kiểu K-4 một khẩu pháo MK 108 30&nbsp;mm gắn trên động cơ với 65 quả đạn và hai súng máy MG 131 13&nbsp;mm trước mũi với 300 viên đạn mỗi khẩu; cùng với khả năng mang thêm các thiết bị bổ sung khác như là thùng nhiên liệu phụ vứt được, cho đến 500&nbsp;kg bom, cụm pháo 20&nbsp;mm dưới cánh hoặc rocket Wfr. Gr. 21 210&nbsp;mm (như trên các kiểu Gustav); hai trang bị sau cùng này hiếm khi được dùng do sự hiện diện của các máy bay tiêm kích Đồng Minh đòi hỏi phải duy trì khả năng có tốc độ cao.
 
Một số nguồn cho rằng có sự sử dụng một cách hạn chế biến thể K-14, nhưng trong thực tế kiểu này chưa từng được chế tạo. Kiểu K-14 được dự định trang bị động cơ DB 605L, đặt được tốc độ 741&nbsp;km/h (460&nbsp;mph) và đặt được trần bay hoạt động khoảng 11.580&nbsp;m (38.000&nbsp;ft). Vũ khí được trang bị không mạnh bằng biến thể K-10 (được dự định như một máy bay tiêu diệt ném bom) và chỉ bao gồm hai pháo [[MG 151]] 15&nbsp;mm gắn trên cánh, hai súng máy [[MG 131]] gắn trên thân và một khẩu pháo [[MK 103]] bắn xuyên qua [[trục cánh quạt]].<ref>Feist 1993, p.45.</ref>
 
Phiên bản Bf 109 K-4 là kiểu Bf 109 nhanh nhất trong Thế Chiến II, đạt được tốc độ 715&nbsp;km/h (445&nbsp;mph) ở độ cao 7.500&nbsp;m (24.600&nbsp;ft); các bộ cánh quạt cải tiến được phát triển vào lúc chiến tranh sắp kết thúc giúp nâng tốc độ lên đến 727&nbsp;km/h (452&nbsp;mph) hay thậm chí 741&nbsp;km/h (460&nbsp;mph).<ref>[http://kurfurst.allaboutwarfare.com/Performance_tests/109K_PBLeistungen/files/5026-27_DBSonder_MW_geschw.jpg Table of test results from test 109 Ks] Truy cập: [[15 tháng 7]] năm [[2008]]</ref> Tốc độ lên cao khá nổi bật, đạt đến 29,5&nbsp;m/s (5.800&nbsp;ft/min) ở áp suất ống góp 1,98 ata và 27,9&nbsp;m/s (5.500&nbsp;ft/min) ở áp suất 1,8 ata. Với những cải tiến như vậy trong tính năng bay, kiểu Bf 109 K vẫn so sánh được nếu không nói là vượt trội hơn những chiếc máy bay tiêm kích hàng đầu của Xô Viết hay Đồng Minh cho đến hết chiến tranh. Tuy nhiên, khả năng kém cõi của hàng ngàn phi công mới chưa có kinh nghiệm của Không quân Đức vào giai đoạn này của cuộc chiến làm cho các thế mạnh của phiên bản Bf 109 mới ít có ý nghĩa so với số đông các phi công Đồng Minh được huấn luyện tốt hơn.
 
* '''K-0''' phiên bản tiền sản xuất, trang bị động cơ DB 605DM
Dòng 319:
=== Bf 109T "Trägerflugzeug" (máy bay trên tàu sân bay) ===
[[Tập tin:Bf109T 3Seiten neu.jpg|nhỏ|Messerschmitt Bf 109 T-1]]
Trước chiến tranh [[Hải quân Đức]] bắt đầu say mê với khái niệm về [[tàu sân bay]]. Vay mượn các ý tưởng từ [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] và [[Nhật Bản]] (chủ yếu là từ chiếc tàu sân bay [[Tàu sân bay Nhật Bản Akagi|''Akagi'']]), họ khởi sự chế tạo chiếc tàu sân bay ''[[Tàu sân bay Đức Graf Zeppelin|Graf Zeppelin]]'' (đừng nhầm với chiếc [[khí cầu|khinh khí cầu]] ''[[Graf Zeppelin]]'') như là một phần của chương trình tái cấu trúc Hải quân. Lực lượng không quân trên tàu sân bay sẽ dựa trên các kiểu máy bay tiêm kích Messerschmitt Bf 109T và máy bay ném bom bổ nhào [[Junkers Ju 87|Ju 87T]]. Ký tự 'T' được thêm vào phía sau biểu thị, 'Träger', trong [[tiếng Đức]] có nghĩa là tàu sân bay.
 
Lúc đầu, mười chiếc Bf 109E-3 được yêu cầu cải biến sang tiêu chuẩn Bf '''109T-0''', bao gồm bổ sung một móc hãm đuôi, bộ nối với máy phóng, tăng cường cấu trúc thân, cánh có thể xếp được bằng tay, và gia tăng sãi cánh lên đến 11,08 m. Vệt bánh đáp chính cũng được làm rộng hơn đôi chút. Sau các chuyến bay thử nghiệm, đặc biệt là thử nghiệm máy phóng, một lô 70 chiếc '''T-1''' trang bị động cơ DB601N được đặt hàng để sản xuất tại [[Fieseler]] ở [[Kassel]], nhưng sau khi có bảy chiếc T-1 được chế tạo, kế hoạch tàu sân bay bị hủy bỏ. Số 63 chiếc còn lại trong tổng số 70 chiếc T-1 được chế tạo theo tiêu chuẩn '''T-2''' mà không có các thiết bị cho tàu sân bay, và một số chiếc T-0 và T-1 đã được ''nâng cấp'' lên tiêu chuẩn T-2. Những chiếc máy bay tiêm kích này được bố trí đến Liên đội Jagdgeschwader 77 (I/JG.77]]) trú đóng tại [[Na Uy]]. Quyết định đặt căn cứ những chiếc máy bay này tại Na Uy chủ yếu là do tình trạng của các đường băng hạ cánh đây ngắn và thường xuyên có các cơn gió ngang mạnh mẽ. Không lâu sau đơn vị này được yêu cầu hoàn trả kiểu máy bay này cho một đơn vị thử nghiệm đang được huấn luyện tại sân bay Drontheim-Fjorde và được nhận những chiếc E-3 thay thế. Vũ khí trang bị của kiểu Bf 109T bao gồm hai súng máy MG 17 gắn trên động cơ và một khẩu pháo MG FF/M trên mỗi cánh.
 
Mối quan tâm đến dự án tàu sân bay ''Graf Zeppelin'' quay lại khi giá trị của những chiếc tàu sân bay trở nên rõ ràng, và vào năm [[1942]] chiếc tàu được đưa trở lại xưởng để hoàn tất. Vào lúc này kiểu Bf 109T đã trở nên lạc hậu một cách tuyệt vọng và cần phải có một kiểu máy bay tiêm kích mới. Messerschmitt đáp ứng nhu cầu này bằng loạt máy bay nâng cấp [[Messerschmitt Me 155|Me 155A]], nhưng công việc trên chiếc tàu chiến một lần nữa lại bị hủy bỏ và chiếc Me 155 sau đó được thay đổi mục đích thành một kiểu [[máy bay tiêm kích đánh chặn]] tầm cao.
Dòng 339:
=== Hoạt động tại Phần Lan ===
[[Tập tin:Messerschmitt Bf 109G-2.jpg|nhỏ|Messerschmitt Bf 109 G-2 của [[Không quân Phần Lan]] tại [[sân bay Malmi]] vào năm [[Hàng không năm 1943|1943]].]]
Vào năm [[Hàng không năm 1943|1943]], [[Không quân Phần Lan]] nhận được những chiếc Bf 109 đầu tiên của họ. Có tổng cộng 162 máy bay kiểu này được đặt mua, và chiếc máy bay đầu tiên hạ cánh xuống Phần Lan vào ngày [[13 tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. Chỉ có 159 chiếc được đưa vào hoạt động, vì đã có hai chiếc G-6 và một chiếc G-8 bị mất trên đường bay đến Phần Lan. Trong số này có 48 chiếc kiểu G-2, 109 chiếc kiểu G-6 và hai chiếc kiểu G-8. Bf 109 là kiểu máy bay hoạt động trong Không quân Phần Lan với số lượng lớn nhất. Nó được đặt tên lóng là "Mersu" trong ngôn ngữ thông dụng (giống như tên đặt cho những chiếc xe hơi Mercedes-Benz, vốn do cùng công ty mẹ Daimler-Benz sản xuất loại động cơ dành cho Bf 109) và được mang ký hiệu MT cùng ba số tiếp theo để nhận diện. Với sự có mặt của những chiếc Bf 109, các cuộc không chiến trở nên cân bằng hơn vì chúng có thể sánh được với những chiếc máy bay tiêm kích Xô Viết mới nhất. Chiếc Bf 109 cuối cùng được giao đến Phần Lan vào ngày [[20 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], chỉ ít lâu trước lúc đình chiến với Liên Xô.
 
Trong cuộc [[Mặt trận Phần Lan (Chiến tranh Xô-Đức)|Chiến tranh Tiếp diễn]], Bf 109 đã phục vụ trong các phi đội tiêm kích 24, 28, 30 và 34. Không quân Phần Lan đã ghi được 667 chiến công được xác nhận đối với kiểu máy bay này, trong khi bị thiệt hại mất 34 chiếc Bf 109 do máy bay tiêm kích đối phương hay hỏa lực phòng không. Ngoài ra còn có 16 chiếc bị mất do tai nạn và tám chiếc bị phá hủy trên mặt đất. Có tổng cộng 23 phi công bị thiệt mạng.<ref name="Stenman"/>
 
Sau chiến tranh, còn lại 102 chiếc Bf 109, và kiểu máy bay này trở thành loại máy bay tiêm kích chủ lực của Không quân Phần Lan thêm gần một thập niên nữa kể từ sau Thế Chiến II. Cho dù chiếc máy bay có tuổi thọ dự kiến ngắn ngủi (nó được chế tạo như một máy bay thời chiến và được tính toán để tồn tại khoảng 100-200 giờ bay), nó chỉ được rút ra khỏi phục vụ vào mùa Xuân năm [[Hàng không năm 1954|1954]] khi Không quân Phần Lan bước vào kỷ nguyên phản lực. Chuyến bay cuối cùng của kiểu máy bay này được thực hiện vào ngày [[13 tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1954|1954]] bởi Thiếu tá Erkki Heinilä trên chiếc máy bay mang ký hiệu MT-507.
 
Nhiều chiếc Bf 109 đang được bảo tồn tại Phần Lan. Chiếc Bf 109 ký hiệu MT-452 được trưng bày tại sân bay Utti<ref>[http://www.virtualpilots.fi/feature/photoreports/Mersujuhla2003/HPIM2022.JPG MT-452, ảnh chụp] từ sân bay ở Utti</ref>, và [[Bảo tàng Hàng không Trung ương Phần Lan]] trưng bày chiếc MT-507, vốn là chiếc máy bay Bf 109 cuối cùng của Không quân Phần Lan.<ref>[http://www.airliners.net/open.file/738811/L/ MT-507, ảnh chụp], từ airliners.com</ref>
 
=== Hoạt động tại Thụy Sĩ ===
[[Thụy Sĩ]] nhận được những chiếc Bf 109 đầu tiên vào năm [[Hàng không năm 1938|1938]] khi mười chiếc Bf 109D được giao hàng. Sau đó, có thêm 80 chiếc 109E-3 được đặt mua và được giao từ [[tháng tư|tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1939|1939]] cho đến ngay trước khi Đức xâm chiếm Pháp vào mùa Hè năm [[Hàng không năm 1940|1940]]. Trong chiến tranh, [[Không quân Thụy Sĩ]] chiếm giữ thêm bốn chiếc Bf 109 (hai chiếc phiên bản F và hai chiếc G). Số máy bay 109E được bổ sung thêm tám chiếc được chế tạo theo giấy phép nhượng quyền từ linh kiện rời bởi Doflug, ở Altenrhein và được giao vào năm [[Hàng không năm 1944|1944]].
 
Vào [[tháng tư|tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], Thụy Sĩ được sở hữu thêm mười hai chiếc máy bay phiên bản G-6 trao đổi cho việc phá hủy một chiếc máy bay [[máy bay tiêm kích ban đêm|tiêm kích bay đêm]] tuyệt mật [[Messerschmitt Bf 110]]G bị buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống Thụy Sĩ. Những chiếc máy bay 109G mới chịu ảnh hưởng bởi nhiều khiếm khuyết trong sản xuất; và sau nhiều sự cố trong hoạt động, chúng bị rút khỏi phục vụ vào [[tháng năm|tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1948|1948]]. Những chiếc 109E tiếp tục phục vụ cho đến tận [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[Hàng không năm 1949|1949]].<ref>Osché, Philippe (translated by Laureau, Patrick) 1996.</ref>
 
Vào ngày [[10 tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1940|1940]] đã nổ ra cuộc không chiến giữa Thụy Sĩ và Đức. Nhiều chiếc Bf 109 của Thụy Sĩ đã đối đầu một chiếc [[Dornier Do 17]] của Đức gần biên giới ở Bütschwil. Trong cuộc chạm súng sau đó, chiếc Dornier bị bắn trúng và bị buộc phải hạ cánh gần Altenrhein.
 
Vào ngày [[1 tháng 6]], Không quân Thụy Sĩ tung ra 12 chiếc Bf 109 E-1 đối đầu cùng 36 chiếc máy bay [[Heinkel He 111]] không được hộ tống của Đức thuộc Phi đội ''Kampfgeschwader 53'' đang vượt qua không phận của Thụy Sĩ để tấn công hệ thống đường sắt [[Lyon]] - [[Marseille]]s. Không quân Thụy Sĩ chịu tổn thất đầu tiên trong trận chiến này khi Thiếu úy Rudolf Rickenbacher thiệt mạng do thùng nhiên liệu trên chiếc Bf 109 của ông bị nổ tung do đạn bắn trả từ chiếc Heinkel. Tuy nhiên những chiếc ''Emil'' Thụy Sĩ đã bắn rơi được sáu chiếc He 111.<ref name="Hooton p 82">Hooton 2007, p. 82.</ref>
 
Vào ngày [[8 tháng 6]], một chiếc máy bay quan sát C-35, một loại máy bay [[máy bay cánh kép|cánh kép]] cổ, bị tấn công bên trên [[dãy núi Jura]] bởi hai chiếc Bf 110 của Đức; phi công và quan sát viên đều thiệt mạng. Cùng ngày hôm đó, Đại úy Lindecker dẫn đầu khoảng 15 chiếc ''Emil'' Thụy Sĩ đánh chặn một đội hình He 111 của Đức được hộ tống bởi những chiếc [[Messerschmitt Bf 110|Bf 110]] thuộc Phi đội ''Zerstörergeschwader 1''. Cuộc giao chiến đã đưa đến việc năm chiếc Bf 110 của Đức bị bắn rơi (kể cả Đại úy Không đoàn Gerhard Kadow) với thiệt hại là một chiếc Bf 109 Thụy Sĩ.<ref name="Hooton p 82"/>
 
Trong chiến tranh, những chiếc máy bay của Thụy Sĩ được sơn các sọc trắng và đỏ “dấu hiệu trung lập” quanh thân và cánh chính để tránh nhầm lẫn với các máy bay Bf 109 của Đức.
 
=== Hoạt động tại Nam Tư ===