Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ninh Tốn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n loại bỏ nguồn wordpress using AWB
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Nha tho Ninh Ton.jpg|200px|nhỏ|phải|Nhà thờ Ninh Tốn, di tích lịch sử quốc gia ở xã Yên Mỹ.]]
'''Ninh Tốn''' ([[chữ Hán]]: 寧遜, [[1743]]-[[1795]]?), tự '''Khiêm Như''' sau đổi là '''Hi Chi''', hiệu '''Mẫn Hiên''', '''Chuyết Sơn cư sĩ''', '''Song An cư sĩ'''; là [[nhà thơ]], nhà sử học, và là đại thần thời [[Nhà Lê trung hưng|Lê trung hưng]] và [[Tây Sơn]] trong [[lịch sử Việt Nam]].
 
==Thân thế và sự nghiệp==
Ông là người Côi Trì, nay thuộc xã [[Yên Mỹ, Yên Mô|Yên Mỹ]] huyện [[Yên Mô]], tỉnh [[Ninh Bình]]. Theo bia "Côi Trì bi ký" do Ninh Tốn soạn năm [[1769]], thì tổ tiên ông trước ở Ninh Xá, huyện [[Chí Linh]] ([[Hải Dương]])<ref>''Thơ văn Ninh Tốn'', tr. 7.</ref>. Tuy nhiên, theo Gia phả họ Ninh tại Côi Trì, thì tổ tiên ông là cụ Doãn Chung từ thôn Ninh Xá Hạ, xã Yên Ninh, huyện [[Ý Yên]] (nay thuộc tỉnh [[Nam Định]]) tới "chiếm xạ" (?) tại Côi Trì vào khoảng năm Hồng Đức triều Hậu Lê khai khẩn đất rồi định cư luôn ở đó.
Cha Ninh Tốn là Ninh Sản (''hiệu Dã Hiên, Hy Tăng'')<ref>''Thơ văn Ninh Tốn'', tr. 8.</ref>, một ẩn sĩ, là tác giả của hai tập sách: Vũ Vu thiển thuyết (''Lời bàn nông cạn về thú ở ẩn'') và Phong vinh tập (''Tập thơ văn Vịnh gió''). Bác của Ninh Tốn là Ninh Địch, đỗ [[Hoàng giáp]] khoa [[Mậu Tuất]] ([[1718]]) đời [[Lê Dụ Tông]].
 
Từ nhỏ, Ninh Tốn đã nổi tiếng là thông minh, được cha cho trọ học ở kinh đô [[Thăng Long]]. Năm [[1762]], ông đỗ Hương cống (tức [[Cử nhân (định hướng)|Cử nhân]]). Sau đó, ông tiếp tục theo học với Tiến sĩ Vũ Huy Đĩnh. Ở đây ông kết thân với hai bạn học là [[Phạm Nguyễn Du]] và [[Vũ Huy Tấn]].
Dòng 26:
Năm [[1786]], ông làm Hiệp trấn ở Động Hải (thuộc [[lệ Thủy, Quảng Bình|huyện Lệ Thủy]], tỉnh [[Quảng Bình]]). Khi quân [[Tây Sơn]] đoạt thành [[Cố đô Huế|Phú Xuân]] (1786), tiến đánh ra các đồn Cát Thanh, Động Hải thì ông bỏ đồn mà chạy <ref>Việc Ninh Tốn bỏ đồn tháo chạy, sách ''Hoàng Lê nhất thống chí'' (hồi thứ tư) chép: ''Chiếm xong [[Cố đô Huế|Phú Xuân]], Bình (tức [[Nguyễn Huệ]]) nhân đà thắng kéo quân ra lấy luôn đồn Động Hải. Tướng giữ đồn là Vị phái hầu cùng hiệp trấn là Ninh Tốn mới trông thấy bóng quân Tây Sơn đã chạy trốn. Thế là mất hết cả đất Thuận Hoá. Bấy giờ là ngày 14 [[tháng năm|tháng 5]] năm [[Bính Ngọ]] niên hiệu Cảnh Hưng ([[1786]]).''</ref>. Nhưng sau đó vẫn được giao chức Tham tri chính sự kiêm Bồi tụng cùng với Ngô Trọng Khuê.
 
Năm [[1787]], [[Nguyễn Hữu Chỉnh]] tâu với vua Lê, cho Nguyễn Như Thái làm Thống lĩnh, Ninh Tốn làm Tham tán quân vụ, đem quân họp với quân của Lê Duật, chống quân Tây Sơn ở [[Thanh Hóa]]. Lê Duật bị quân [[Ngô Văn Sở]] giết chết ở Cao Lũng, Nguyễn Như Thái bị tên bắn chết sau khi thua trận ở sông Giản (thuộc [[Ninh Bình]]), còn Ninh Tốn nhờ trốn vào nhà dân được thoát nạn <ref>Xem chi tiết trong ''Hoàng Lê nhất thống chí'', hồi thứ mười.</ref>.
 
===Làm quan thời Tây Sơn (1788-1790)===
Dòng 43:
*''Tiền Lê tiến sĩ Ninh Tốn thi tập'', mang ký hiệu: A.350.
 
Trong ba cuốn trên có nhiều bài trùng lập.
 
Năm [[1984]], một nhóm biên soạn (''Hoàng Lê chủ biên'') thuộc Viện Hán Nôm ([[Hà Nội]]) đã tuyển chọn ra 107 bài thơ và 1 bài tựa ''Hoa trình học bộ tự'' để in thành tác phẩm ''Thơ văn Ninh Tốn'' (Nxb KHXH, Hà Nội, 1984).
 
==Sơ lược nội dung và giá trị tác phẩm==