Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Paik Sun-yup”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Infobox military person |name=Paik Sun-yup<br />백선엽<br />白善燁 |birth_date= {{birth date and age|1920|11|23}} |death_date= |birth_place= Nampho|Na…”
 
Dòng 51:
Khi chiến sự nổ ra ngày 25 tháng 6 năm 1950, ông được phân công phòng thủ [[Seoul]] với tư cách sĩ quan chỉ huy Sư đoàn Bộ binh số 1. Cuối cùng ông phải rút xuống [[Gyeongsang Nam]] nhưng đã có những đóng góp quan trọng cho việc phòng thủ [[vành đai Busan]], đặc biệt là chiến thắng tại làng Dabudong.
 
Khi hành quân lên phía bắc, sư đoàn 1 của ông trực thuộc quân đoàn I Hoa Kỳ là đơn vị đầu tiên tiến vào Bình Nhưỡng ngày 19 tháng 10. Ông là một trong những sĩ quan đầu tiên nhận thấy việc Trung Quốc tham gia vào cuộc chiến. Chịu trách nhiệm phòng thủ tây bắc Triều Tiên nhưng ông đã bị đẩy lui bởi quân đội Trung Quốc áp đảo.
 
Tháng 4, 1951, Paik được bổ làm chỉ huy Quân đoàn I Hàn Quốc đảm trách phía đông Triều Tiên. Tháng 7, 1951, Paik được chọn để đại diện cho quân đội Hàn Quốc tại cuộc đối thoại ngừng bắn Kaesong nhưng hội nghị này không đem lại kết quả.
 
Tháng 11, lực lượng đặc nhiệm Paik được thành lập để tiêu diệt du kích cộng sản ở [[Jirisan]]. Chiến dịch này kết thúc thành công tháng 3 năm 1952. Nhờ chiến công này ông được đề bạt lên cấp [[trung tướng]] và lực lượng đặc nhiệm Paik được chuyển thành quân đoàn II Hàn Quốc. Sau đó ông được chỉ định làm Tham mưu trưởng Lục quân tháng 7 năm 1952. Ông đã hiến dâng bản thân cho việc xây dựng quân đội Hàn Quốc. Tháng 1 năm 1952, ông được thăng hàm đại tướng, trở thành tướng bốn sao đầu tiên của quân đội Hàn Quốc.
 
==Sự nghiệp hậu chiến==
[[File:1951 Chung Baik Eisenhower.jpg|thumb|200px|left|[[Korean War]]<br />([[Dwight D. Eisenhower]], Kim Baik-Il, Baik Seon-yup, [[Chung Il-kwon]].]]
[[File:ALSeeEdit32 Paik Sun Yup.jpg|thumb|200px|right|Paik Sun-yup in May 2002.]]
[[File:Korea delegation.jpg|thumb|200px|right|Paik in an armistice delegation in 1951.]]
Paik đã giữ các chức vụ như chỉ huy quân đoàn I, tham mưu trưởng lục quân, tham mưu trưởng liên quân Đại Hàn Dân Quốc cho đến khi ông rời khỏi các chức vụ quân đội tháng 5 năm 1960.
 
Ông là đại sứ tại [[Trung Hoa Dân quốc]] (Đài Loàn) năm 1960, [[Pháp]] năm 1961, và [[Canada]] năm 1965. Từ 1969 đến 1971, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ vận tải và đã khởi động việc xây dựng [[tàu điện ngầm Seoul]]. Năm 1970, ông phải đối phó với một vụ cướp máy bay của hãng [[Japan Airlines]] do [[Hồng quân Nhật Bản]] thực hiện tại [[sân bay quốc tế Gimpo]]. Ông đã tham gia vào việc xây dựng khu tưởng niệm chiến tranh tại [[Yongsan-gu]], mở cửa năm 1990.
 
Tướng Paik là tác giả của cuốn sách "''Từ Pusan đến Panmunjom: những hồi ký thời chiến của tướng bốn sao đầu tiên của Đại Hàn Dân Quốc''"(Dulles, VA: Brassey's, 1992): ISBN 978-1-57488-202-5.
 
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
 
(Dulles, VA: Brassey's, 1992): ISBN 978-1-57488-202-5.
 
[[Thể loại:Sinh 1920]]
[[Thể loại:Nhân vật còn sống]]
[[Thể loại:Đại tướng Hàn Quốc]]