Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thalidomide”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 23:
 
== Công dụng ==
Gần đây, trên thế giới có nhiều nghiên cứu đã sử dụng thalidomide trong điều trị bệnh đa u tủy xương và cho nhiều kết quả hứa hẹn. Việc điều trị bệnh hiện nay tập trung vào ức chế sự tăng sinh dòng tương bào, với hóa trị liệu đơn độc hay lý tưởng nhất là hóa trị liệu kết hợp với ghép tủy tự thân hay ghép tủy đồng loại. Phương pháp điều trị này cho phép kéo dài thời gian sống thêm nhiều năm.
Thalidomide tiền thân là 1 thuốc an thần được sử dụng tương đối rộng rãi tại châu Âu thập kỷ 60 của thế kỷ 20.Thalidomide có thể dùng trong điều trị [[đau tủy]] (''multiple myeloma'') và ban đỏ nốt do [[cùi]] (''erythema nodosum leprosum'').
 
Các thuốc sử dụng trong điều trị bệnh gồm nhiều thuốc như melphalan, prednison, dexamethason, vincristin, adriamycin, cyclophosphamid... với nhiều phác đồ phối hợp khác nhau như MP (melphalan + prednison), VAD (vincristin + adriamycin + dexamethason), VMCP (vincristin + melphalan + cyclophosphamid + prednison)...
Tuy nhiên, mỗi phác đồ có những thành công cũng như những hạn chế nhất định. Khi nghiên cứu về bệnh đa u tủy xương, các nhà khoa học nhấn mạnh yếu tố hoại tử u (TNF-a) và interleukin-6 (IL-6) có tác dụng thúc đẩy sự tăng sinh mạch máu, vốn đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của bệnh. Các nghiên cứu đồng thời cũng nhận thấy vai trò của thalidomide trong việc ức chế các yếu tố TNF-a và IL-6.
Ngày 26/5/2006, FDA đã chính thức công nhận thalidomide là thuốc được sử dụng trong điều trị bệnh đa u tủy xương. Thử nghiệm lâm sàng đầu tiên đánh giá hiệu quả và tính an toàn của thalidomide trong điều trị bệnh đa u tủy xương là vào năm 1999. Các bệnh nhân trong nghiên cứu đều đã thất bại hoặc tái phát với các điều trị thông thường trước đó. Sau khi dùng thalidomide đơn độc liều tăng dần từ 200mg- 800mg/ngày, các tác giả nhận thấy có 32% bệnh nhân có đáp ứng với thuốc.
Thuốc được dung nạp tương đối tốt, các tác dụng phụ bao gồm ngủ gà, táo bón, bệnh lý thần kinh ngoại biên. Rất nhiều nghiên cứu sau đó cho thấy tỷ lệ đáp ứng ở những bệnh nhân đa u tủy xương tái phát hoặc thất bại trong điều trị trước đó sau khi dùng thalidomide đơn độc khá cao (50 - 83%) với liều thuốc thay đổi tùy nghiên cứu, tối thiểu là 50mg/ngày, tối đa là 800mg/ngày.
Trong các nghiên cứu mở rộng sau này, thalidomide còn được dùng kết hợp với các thuốc khác với các phác đồ như thalidomide + dexamethason, thalidomide + melphalan (đây là hai phác đồ phối hợp được nghiên cứu nhiều nhất), thalidomide + cyclophosphamit + dexamethason + thalidomide + VAD, thalidomide + interferon a... và nhìn chung đều cho kết quả tốt hơn so với các phác đồ cổ điển như điều trị dexamethason đơn độc, hoặc MP, hoặc VAD.
Với các kết quả nghiên cứu trên, sử dụng thalidomide đơn độc hay phối hợp dần được coi như liệu pháp điều trị chuẩn trong điều trị bệnh đa u tủy xương tái phát hoặc kháng thuốc. Về sau, nhiều nghiên cứu đã mở rộng chỉ định điều trị thalidomide cho những bệnh nhân đa u tủy xương mới phát hiện, chưa điều trị thuốc khác bao giờ với tỷ lệ đáp ứng từ 66 - 81%, kéo dài thời gian sống cũng như thời gian đến đợt tái phát tiếp theo so với một số phác đồ chuẩn như MP, VAD.
 
Thuốc có thể dùng đơn độc hay kết hợp với các thuốc khác như thalidomide + dexamethason, thalidomide + dexamethason + melphalan. Không những đóng vai trò quan trọng trong các phác đồ hóa trị liệu đơn thuần, thalidomide đơn độc hay phối hợp với dexamethason hoặc một số thuốc khác còn được dùng như liệu pháp dẫn để chuẩn bị trước ghép tủy, liệu pháp củng cố và duy trì sau ghép tủy tự thân, ghép tủy đồng loài hay sau điều trị bằng các phương pháp hóa trị liệu.
Về liều dùng thalidomide, trong đa số các nghiên cứu đều tăng dần liều từ 100mg đến liều dung nạp tối đa tới 800mg/ngày. Tuy nhiên, tần suất cũng như mức độ các tác dụng phụ cũng tăng theo liều thuốc. Một số nghiên cứu cho thấy liều thấp thalidomid (50- 400mg, trung bình 100mg/ngày) cũng cho kết quả khá tốt. Tuy vậy, mức độ đáp ứng của bệnh với liều thuốc nào là tối ưu còn phụ thuộc vào các yếu tố tiên lượng bệnh, giai đoạn bệnh và vẫn đang cần nghiên cứu thêm.
 
== Tác hại đến thai ==