Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Viện hàn lâm Pháp”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 86:
== Lịch sử ==
[[File:La Coupole de l'Institut de France.JPG|thumb|Viện hàn lâm Pháp, nơi các viện sĩ nhóm họp trong các buổi họp công cộng.]]
Nguồn gốc Viện hàn lâm Pháp bắt đầu từ những cuộc họp không chính thức của nhóm nhà văn học thuộc «hội Conrart» từ năm 1629 tại số 135 phố Saint-Martin, nơi cư ngụ của [[Valentin Conrart]], cố vấn của vua [[Louis XIII]]. Các cuộc họp mặt văn học này đã gợi ý cho [[hồng y
[[File:Ancienne porte de l'Académie française.jpg|thumb|left|upright|Cửa cũ của Viện hàn lâm Pháp (trước năm 1780) với khẩu hiệu «À l'immortalité» (Để lưu danh muôn thuở).]]
Quyển ''Histoire de l'Académie françoise'' (tập một xuất bản năm [[1653]]) do [[Paul Pellisson]], một viện sĩ của Viện viết, tập thứ hai do [[Pierre-Joseph Thoulier d'Olivet]] viết thuật lại lịch sử của Viện, được xuất bản năm [[1729]]), soạn thảo từ các sổ sách của Viện Hàn lâm Pháp và dưới ảnh hưởng của các viện sĩ, là nguồn duy nhất về việc thành lập Viện hàn lâm này. Pellisson cho rằng Viện không có tính mục đích bác học nào như [[académie de Baïf]]<ref>hội âm nhạc và thơ do nhà thơ Baïf và nhạc sĩ Joachim Thibault de Courville thành lập</ref>
Đặc tính chính thức của Viện «những người tài trí» được hình thành, ban đầu Viện họp ở bất cứ nhà viện sĩ nào, sau đó họp tại nhà quan chưởng ấn [[Pierre Séguier]] từ năm 1639, theo ý kiến của [[Colbert]] họp tại [[cung điện Louvre]] từ năm 1672, và cuối cùng họp ở [[collège des Quatre-Nations]] (trở thành [[Institut de France]] năm 1795) từ năm 1805 tới ngày nay<ref>[http://www.academie-francaise.fr/histoire/index.html L'histoire de l'Académie française]</ref>.
Trong 3 thế kỷ rưỡi tồn tại, trong đó Viện đã là hiện thân của quyền hành dưới các triều vua [[Louis XIII]] và [[Louis XIV]], biểu lộ tư tưởng cách mạng dưới các triều vua [[Louis XV]] và [[Louis XVI]], Viện đã biết duy trì thể chế của mình, hoạt động đều đặn, ngoại trừ sự gián đoạn từ năm [[1793]] tới năm [[1803]] trong thời [[Convention thermidorienne]]<ref>Hội nghị quốc ước tháng thermidor tức tháng 11 theo Lịch Cộng hòa Pháp</ref>, thời [[Chế độ đốc chính]] và lúc khởi đầu thời [[Chế độ tổng tài]]. Năm 1694 Viện xuất bản ấn bản đầu tiên quyển [[Dictionnaire de l'Académie française]] (''Từ điển của Viện hàn lâm Pháp''). Năm 1793, do sắc lệnh ngày 8.8.1793, Hội nghị quốc ước bãi bỏ mọi viện hàn lâm hoàng gia, trong đó có Viện hàn lâm Pháp, và xác định lệnh cấm bầu các thành viên mới thay thế cho các thành viên đã tạ thế. Trong thời [[Cách mạng Pháp]],
Lưu ý là năm 1800, theo lời xúi giục của [[Jean-Pierre Louis de Fontanes]], [[André Morellet]] và [[Jean Baptiste Antoine Suard]], Lucien Bonaparte - lúc bấy giờ là bộ trưởng bộ Nội vụ - từng mơ ước trở thành một viện sĩ, đã nhắm tổ chức lại Viện hàn lâm Pháp. Viên tổng tài thứ nhất, người anh của ông (tức Napoléon Bonaparte)
* không hề có Viện hàn lâm Pháp.
* nó đã bị bãi bỏ bởi một đạo luật của chế độ Cộng hòa.
*“Institut de France” đã tập hợp cùng lúc các Viện hàn lâm Khoa học, Viện hàn lâm Pháp và Viện hàn lâm văn chương rồi.
* nếu một hiệp hội mang cái tên nực cười (sic) Viện hàn lâm Pháp và theo điều lệ cũ của nó, thì ý định của chính phủ sẽ là bãi bỏ nó ngay lập tức.
Chủ nghĩa yêu nước nẩy sinh từ cuộc [[Chiến tranh thế giới lần thứ nhất]] dành ưu tiên cho việc tuyển chọn nhiều thống chế (người đầu tiên là [[thống chế Lyautey]] năm [[1912]]). Trong thời bị Đức chiếm đóng, Viện hàn lâm Pháp đã có những viện sĩ cộng tác với kẻ thù (như [[Charles Maurras]], [[Abel Bonnard]], [[Abel Hermant]] vv… và [[thống chế Pétain]]) từ năm 1929. Một truyền thuyết muốn rằng [[François Mauriac]] là linh hồn của cuộc kháng cự hàn lâm trong khi chính [[Georges Duhamel]] được bầu tạm thời vào chức thư ký vĩnh viễn năm 1942 là người đã tránh cho Viện hàn lâm khỏi bị lệ thuộc vào chế độ Vichy, đặc biệt là bằng việc đình chỉ các cuộc bầu cử (viện sĩ) như (từng xẩy ra) năm 1790<ref>Hélène Carrère d'Encausse, ''[http://www.academie-francaise.fr/immortels/discours_SPA/carrere_2010.html Le mystère de l'Académie : pouvoir intellectuel, pouvoir politique], séance publique annuelle de l'Institut, 2 décembre 2010</ref>. Khi nước Pháp được giải phóng, giới trí thức bị [[Comité national des écrivains]] (''Ủy ban nhà văn quốc gia'') thanh lọc
Viện hàn lâm từ đó lại tìm được sự độc lập hoàn toàn về chính trị và tài chính<ref>[http://legifrance.gouv.fr/jopdf/common/jo_pdf.jsp?numJO=0&dateJO=20060419&numTexte=00002&pageDebut=00002&pageFin= Loi de programme n° 2006-450 du 18 avril 2006]</ref> vis-à-vis de l'Institut de France par la [[loi de programme pour la recherche de 2006]]<ref name="Encausse"/>.▼
[[Marguerite Yourcenar]] là nữ viện sĩ đầu tiên được bầu vào Viện hàn lâm Pháp năm [[1980]], như một sự công nhận quyền bình đẳng của phụ nữ trước «bộ lạc 40 người nam» này, trong khi [[Léopold Sédar Senghor]] là người châu Phi đầu tiên trở thành viện sĩ năm [[1983]]. ▼
▲Viện hàn lâm từ đó lại tìm được sự độc lập hoàn toàn về chính trị và tài chính<ref>[http://legifrance.gouv.fr/jopdf/common/jo_pdf.jsp?numJO=0&dateJO=20060419&numTexte=00002&pageDebut=00002&pageFin= Loi de programme n° 2006-450 du 18 avril 2006]</ref>
▲[[Marguerite Yourcenar]] là nữ viện sĩ đầu tiên được bầu vào Viện hàn lâm Pháp năm [[1980]], như một sự công nhận quyền bình đẳng của phụ nữ trước «bộ lạc 40 người nam» này, trong khi [[Léopold Sédar Senghor]] là người [[châu Phi]] đầu tiên trở thành viện sĩ năm [[1983]].
===Nguồn gốc 40 ghế bành===
Hàng 112 ⟶ 116:
===Từ chối ghế được đề nghị===
Người ta biết hiếm có nhà trí thức hay nhà khoa học đã khước từ
"Tôi rất biết ơn ông đã nghĩ tới tôi về [[Quai Conti]] (tức trụ sở Viện hàn lâm Pháp)…. Rất xúc động, tôi xin trả lời «cái nháy mắt» của ông đã làm tôi tự hào. Tuy nhiên, tôi phải nói với ông rằng tôi cảm thấy mình không có tài năng của một viện sĩ. Là nhà văn, tôi luôn sống một mình, xa các bạn đồng nghiệp, nhưng không hề do kiêu căng, mà trái lại, do tính rụt rè và cũng do tính lười biếng của tôi. Tôi sẽ trở thành cái gì nếu tôi được ở trong nhóm 40 nhà văn đó? Tôi sẽ cuống lên không còn tỉnh táo và chắc chắn, tôi sẽ không thể đọc được bài diễn văn (nhậm chức) của mình. Như vậy ông sẽ làm một việc thu hoạch tồi đấy"<ref> extrait de la lettre à [[François Mauriac]], Michel Lécureur, La Comédie humaine de [[Marcel Aymé]], éditions La Manufacture, Lyon, 1985, p. 306</ref>.
Cũng vậy, [[Georges Bernanos]] đã từ chối khi người ta đề nghị đưa ông vào Viện hàn lâm.<ref>Lettre de la fin avril 1946. Combat pour la liberté, [[Plon]], 1971, p. 642</ref>
Thêm vào đó, Viện hàn lâm không phải lúc nào cũng có một danh tiếng tốt đẹp bên cạnh những thế hệ nhà văn mới. [[Frédéric Beigbeder]] coi Viện này «như một hội đồng những người già lẫn cẫn mệt mỏi», còn đối với [[Didier Daeninckx]] thì
Nhiều nhà văn như [[Daniel Pennac]], [[Jean Echenoz]], [[Simon Leys]], [[Le Clézio]], [[Patrick Modiano]], [[Milan Kundera]], [[Pascal Quignard]] hoặc [[Tonino Benacquista]] đã từ chối lời đề nghị tự giới thiệu mình với Viện hàn lâm.
|