Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Văn học Đại Việt thời Lý”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
DHN-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Tự động sửa văn bản (-[[Category: +[[Thể loại: & -[[Image +[[Hình & -|thumb| +|nhỏ| & -|left| +|trái| & -|right| +|phải| & -Ð +Đ)
Dòng 6:
Thời Lý, sự ảnh hưởng của [[đạo Phật]] (đã có căn bản từ triều [[Nhà Đinh|Đinh]]-[[Nhà Tiền Lê|Lê]]) đến chính trị, văn hóa và văn học trở thành một đặc điểm nổi bật trong thời kỳ lịch sử này. Sách ''Việt Nam cổ Văn học sử'' của [[Nguyễn Đổng Chi]] ghi lại ''Trong thế kỷ X, cửa chùa đã đóng một vai trò quan trọng về văn học. Cũng vì thế mà Đạo Phật ở Việt Nam từ đó càng lắm tín đồ và được chính phủ vị nể''.
Các tăng sĩ đời Lý học hiểu rất rộng, uyên thâm [[Hán học]], họ là những người tài giỏi và hay chữ nhất trong xã hội. Khi lực lượng nhà Nho chưa đủ nhiều để tham gia chính sự thì triều đình thường vời đến các bậc cao tăng trưởng lão. Cũng do tính chất độc tôn của đạo Phật trong đời sống tinh thần dân tộc đã dẫn đến nhu cầu rộng rãi trong nhân dân muốn tìm hiểu, học tập những vấn đề triết lý của đạo Phật. ÐểĐể đáp ứng nhu cầu đó, bên cạnh việc thuyết giảng, các nhà sư còn tìm cách truyền phổ đạo Phật bằng cách thể hiện các nội dung triết lý vốn rất trừu tượng khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp người học đạo được thuận lợi hơn trong quá trình nghiên cứu, học tập.
 
Một đặc điểm ngôn ngữ quan trọng là văn tự được viết bằng [[chữ Hán]] nên chủ yếu, chỉ có các tầng lớp vua, quan, nhà sư mới có đủ trình độ uyên bác để sử dụng chữ viết và sáng tác thơ văn.
 
==Tình hình văn học==
''[[Thiền Uyển tập anh]]'' được xem là công trình văn học vĩ đại nhất thời kỳ này[[#Chú thích|<sup>'''1'''</sup>]] và vẫn còn được lưu giữ cho đến nay. ÐặcĐặc điểm của văn học đời Lý là lực lượng các nhà sư sáng tác chiếm đa số trên văn đàn. Có khoảng hơn 40 nhà sư sáng tác với những tên tuổi tiêu biểu như [[Mãn Giác]], [[Viên Chiếu]], [[Viên Thông]], [[Không Lộ]], [[Quảng Nghiêm]]... Các nhà sư đời Lý đã góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học cổ [[Việt Nam]]. Hướng sáng tác của các nhà sư tuy tập trung thuyết lý cho [[đạo Phật]] nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố tích cực.
 
Bên cạnh đó, bắt đầu từ thời Lý, truyền thống yêu nước trong văn học hình thành và phát triển trong các giai đoạn sau. Hai tác giả tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước trong văn học đời Lý là [[Lý Công Uẩn]] và [[Lý Thường Kiệt]]. ''[[Chiếu dời đô]]'' và ''[[Nam quốc sơn hà]]'' được lịch sử ghi nhận là "tuyên ngôn dựng nước" và "tuyên ngôn giữ nước" của dân tộc Việt. Chủ đề yêu nước trong mỗi tác phẩm thể hiện ở những cung bậc trầm hùng khác nhau nhưng ý nghĩa chung nhất vẫn là tiếng nói lạc quan, mang tính thời đại, tiếng nói tự hào của một dân tộc đang vượt qua nhiều thử thách.