Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Công Hãng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 1.52.5.195 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Hai pt
Dòng 7:
==Tiểu sử==
Nguyễn Công Hãng tự Thái Thanh<ref name=VB55 />, hiệu Tĩnh Am<ref name=VB55 />, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn<ref name=VB55 /><ref name=KDVS35>[http://gralib.hcmuns.edu.vn/greenstonelib/library?e=d-000-00---0sachlich--00-0-0--0prompt-10---4------0-1l--1-vi-50---20-about---00031-001-1-0utfZz-8-00&a=d&c=sachlich&cl=CL1&d=HASH0149d39c1237094672279282.41 Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Chính biên quyển 35]</ref>, trấn [[Kinh Bắc]], nay là thôn Phù Chẩn, xã Phù Chẩn, huyện [[Từ Sơn]], tỉnh [[Bắc Ninh]], [[Việt Nam]].
 
Thân phụ ông là [[Nguyễn Công Thiệu]] ([[1635]]-[[1690]]) người [[châu Cổ Pháp]] xưa. Nguyễn Công Thiệu là một nông dân nhà giàu. Nhà ông Thiệu là một căn nhà gỗ ba tầng. Ông Thiệu có 4 người vợ: Triệu Thị Ly An, Trần Thị Hồi, Lê Thị Phi Loan, Hồ Thị Tạc. Năm 1655, Nguyễn Công Thiệu lên ngôi Hoàng đế, xưng là Nguyễn Triều Tổ (tổ tiên của triều đình). Còn bốn vợ của Nguyễn Triều Tổ được phong hoàng hậu. Rồi, năm 1680, bà Hồ Thị Tạc sinh 4 con trai, Nguyễn Công Hãng là con trưởng.
 
Ông đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân<ref name=VB55>[http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1145&Catid=564 Văn miếu Hà Nội: văn bia số 55]</ref> khoa [[Canh Thìn]] niên hiệu Chính Hòa 21 ([[1700]]) đời [[Lê Hy Tông]] lúc mới 20 tuổi, nổi tiếng hay chữ. Kỳ thi này ông đứng thứ 17 trong tổng số 19 người đỗ đạt<ref name=VB55 />.