Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đoàn Như Khuê”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4:
Ông là người làng Hải Yến, huyện [[Tiên Lữ]], tỉnh [[Hưng Yên]]. Thuở nhỏ ông theo học [[chữ Hán]], có đi [[thi Hương]] mấy lần nhưng đều hỏng. Sau, ông bỏ học chữ Hán, tự học [[Quốc ngữ]]; ra [[Hà Nội]] viết sách, dịch sách, và viết cho tờ ''[[Nam Phong tạp chí]]'', ''[[Đông Dương tạp chí]]'', v.v...
Phụ thân ông là [[Đoàn Dục]] ([[1840]]-[[1921]]) võ quan cuối thời nhà Thanh. Đoàn Dục giữ chức này từ năm 1870, khi nhà Thanh ngày càng suy yếu. Mẹ ông là [[Lý Thị An Viên]] ([[1845]]-[[1925]]) người Hồ Nam (Trung Quốc). Lý Thị An Viên sinh được 24 con, gồm 14 con trai và 10 con gái. Đoàn Như Khuê là con trai trưởng.{{fact}}
 
Sau năm [[1945]] ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc Liên khu III. Lúc này cha mẹ qua đời từ rất lâu. Trong hội nghị, ông có đưa vợ là con gái trưởng của Đoàn Dục tên là Trần Thị Hồi Quý. Nhà Nguyễn đổ, chấm dứt [[chế độ quân chủ tập quyền]].
 
Khi [[Hiệp định Genève]] [[1954]] được ký kết, hòa bình được tái lập, ông về định cư ở Hà Nội, và vẫn sống bằng nghề dịch thuật và văn triết cổ [[Trung Quốc]] cho đến khi mất ([[1957]]).
 
==Sáng tác==
Sáng tác của Đoàn Như Khuê, gồm có: