Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Yuri Vladimirovich Andropov”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up, replaced: → (76), → (114), [[Thể loại:Anh hùng lao động → [[Thể loại:Anh hùng Lao động using AWB
Dòng 1:
{{Viên chức
| name = Yuri Vladimirovich Andropov<br /><small>Ю́рий Влади́мирович Андро́пов</small>
| image = RIAN archive 101740 Yury Andropov, Chairman of KGB.jpg
| nationality=[[Liên Xô]]
| imagesize =
| smallimage =
| caption =
| chức vụ = [[Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô]]
| caption =
| term_end term_start = [[912 tháng 211]] năm [[19841982]]
| chức vụ = [[Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô]]
| term_start term_end = [[129 tháng 112]] năm [[19821984]]
| vicepresident =
| term_end = [[9 tháng 2]] năm [[1984]]
| vicepresident viceprimeminister =
| viceprimeministerdeputy =
| deputy president =
| president primeminister =
| predecessor = [[Leonid Brezhnev]]
| primeminister =
| predecessor successor = [[LeonidKonstantin BrezhnevChernenko]]
| successororder2 = Chủ tịch thứ 9 =của [[Konstantin ChernenkoViết Tối cao]]
| term_end2 term_start2 = [[96 tháng 26]] năm [[19841983]]
| order2 = Chủ tịch thứ 9 của [[Xô Viết Tối cao]]
| term_start2 term_end2 = [[69 tháng 62]] năm [[19831984]]
| vicepresident2 =
| term_end2 = [[9 tháng 2]] năm [[1984]]
| vicepresident2 viceprimeminister2 =
| viceprimeminister2deputy2 =
| deputy2 president2 =
| president2 primeminister2 =
| predecessor2 = [[Vasily Kuznetsov]] (quyền)
| primeminister2 =
| predecessor2 successor2 = [[Vasily Kuznetsov]] (quyền)
| successor2 order3 = [[VasilyKGB|Chủ Kuznetsovtịch KGB]] (quyền)thứ 4
| term_start3 = 1967
| order3 = [[KGB|Chủ tịch KGB]] thứ 4
| term_start3 term_end3 = 19671982
| vicepresident3 =
| term_end3 = 1982
| vicepresident3 viceprimeminister3 =
| viceprimeminister3deputy3 =
| deputy3 president3 =
| president3 primeminister3 =
| predecessor3 = [[Vladimir Semichastny]]
| primeminister3 =
| predecessor3 successor3 = [[VladimirVitaly SemichastnyFyodorchuk]]
| birth_date = {{ngày sinh|1914|6|15}}
| successor3 = [[Vitaly Fyodorchuk]]
| birth_place = [[Stavropol]], khi ấy thuộc [[Đế chế Nga]]
| birth_date = {{ngày sinh|1914|6|15}}
| death_date = {{ngày mất và tuổi|1984|2|9|1914|6|15}}
| birth_place = [[Stavropol]], khi ấy thuộc [[Đế chế Nga]]
| death_place = [[Moskva]], [[Cộng hòa XHCN Liên bang Nga]]
| death_date = {{ngày mất và tuổi|1984|2|9|1914|6|15}}
| constituency =
| death_place = [[Moskva]], [[Cộng hòa XHCN Liên bang Nga]]
| party = [[Đảng Cộng sản Liên Xô]]
| constituency =
| spouse = Tatyana Andropova (mất tháng 11 năm 1991)
| party = [[Đảng Cộng sản Liên Xô]]
| profession =
| spouse = Tatyana Andropova (mất tháng 11 năm 1991)
| religion = [[Vô thần]]
| profession =
| signature =
| religion = [[Vô thần]]
| signature footnotes =
| footnotes =
}}
'''Yuri Vladimirovich Andropov''' ({{lang-ru|Ю́рий Влади́мирович Андро́пов}}, ''Yuriy Vladimirovich Andropov'') ({{OldStyleDate|15 June|1914|2 June}} – 9 tháng 2 năm 1984) là một chính trị gia [[Liên Xô]] và [[Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô|Tổng bí thư]] [[Đảng Cộng sản Liên Xô]] từ ngày 12 tháng 11 năm 1982 tới khi ông qua đời mười lăm tháng sau đó.
 
== Tuổi trẻ ==
Yuri Vladimirovich Andropov là con trai của một cán bộ đường sắt Vladimir Konstantinovich Andropov, người từng là một thành viên của gia đình quý tộc [[Don Cossack]].<ref>[http://www.vgd.ru/STORY/don.htm] The noble families from Don</ref> Mẹ ông là Yevgenia Karlovna Fleckenstein, con gái của một doanh nhân người [[Moskva]] giàu có, Karl Franzovich Fleckenstein, một [[Lịch sử người Đức tại Nga và Liên xô|người Nga gốc Đức]] từ [[Vyborg]].<ref>[http://www.itogi.ru/Paper2005.nsf/Article/Itogi_2005_10_01_23_1219.html Itogi no.40, 2008]</ref> Một quý tộc và cũng là nhà cách mạng tên gọi Sergei Vasilevich Andropov (1873-1955) là một người họ hàng của ông.<ref>[http://slovari.yandex.ru/dict/revoluc/article/re9/re9-0366.htm Sergei Vassilevich Andropov.Life]</ref>
 
Ông được giáo dục tại Trường Kỹ thuật Giao thông Thuỷ Rybinsk trước khi gia nhập đoàn thanh niên cộng sản [[Komsomol]] năm 1930. Ông trở thành một thành viên của [[Đảng Cộng sản Liên Xô|Đảng Cộng sản]] năm 1939 và là Thư ký thứ nhất Uỷ ban Trung ương [[Liên đoàn Thanh niên Cộng sản Lenin của Cộng hòa Xô viết Karelo-Phần Lan|Komsomol tại Cộng hoà Xô viết Karelo-Phần Lan]] từ năm 1940 đến năm 1944. Trong [[Chiến tranh thế giới lần thứ hai]], Andropov tham gia vào các hoạt động [[Du kích Liên Xô|chiến tranh du kích]]. Từ năm 1944 trở về sau, ông rời Komsomol để sang hoạt động trong đảng. Năm 1947 ông được bầu làm Thư ký thứ hai của [[Uỷ ban Trung ương]] [[Đảng Cộng sản Cộng hòa Xô viết Karelo-Phần Lan|Đảng Cộng sản (bolshevik) Cộng hòa Xô viết Karelo-Phần Lan]].<ref>[http://www.hrono.ru/biograf/andropov.html]</ref> Ông tới Moscow năm 1951 và gia nhập ban thư ký đảng. Năm 1954, ông trở thành đại sứ Liên xô tại [[Hungary]].
 
== Dập tắt cuộc nổi dậy tại Hungary ==
Năm 1954, Andropov trở thành Đại sứ Liên Xô tại [[Hungary]] và giữ chức vụ này trong cuộc [[Sự kiện năm 1956 ở Hungary|nổi dậy]] của người Hungary. Sau các sự kiện này, Andropov rơi vào một tình trạng "rắc rối Hungary", theo nhà sử học [[Christopher Andrew]]: "ông đã theo dõi một cách sợ hãi từ các cửa sổ đại sứ quán những sĩ quan an ninh Hungary bị căm ghét đang bị treo cổ lên các cột đèn. Andropov bị ám ảnh trong suốt cuộc đời về tốc độ mà một [[nhà nước độc đảng]] cộng sản hùng mạnh bắt đầu bị lật đổ. Khi những chế độ cộng sản khác sau này dường như gặp nguy cơ - [[Mùa xuân Praha|tại Praha năm 1968]], [[Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan|tại Kabul năm 1979]], [[Thiết quân luật tại Ba Lan|tại Warsaw năm 1981]], ông tin tưởng rằng, như [[Sự kiện năm 1956 ở Hungary|tại Budapest năm 1956]], chỉ lực lượng vũ trang mới có thể đảm bảo sự tồn tại của chúng"<ref name="Andrew">[[Christopher Andrew]] and [[Vasili Mitrokhin]], ''The [[Mitrokhin Archive]]: The KGB in Europe and the West'', Gardners Books (2000), ISBN 0-14-028487-7</ref>
 
Andropov đóng vai trò quan trọng trong việc trấn áp cuộc nổi dậy Hungary. Ông đã thuyết phục [[Nikita Khrushchev]] khi ấy đang do dự rằng một sự can thiệp quân sự là cần thiết.<ref name="Andrew" /> Mặt khác, ông lại nói với [[Imre Nagy]] và những nhà lãnh đạo Hungary khác rằng chính phủ Liên Xô sẽ không tấn công Hungary ngay khi cuộc tấn công sắp diễn ra. Các lãnh đạo Hungary bị bắt giữ và Nagy bị hành quyết.
Dòng 64:
 
=== Trấn áp phong trào Mùa xuân Praha ===
Trong các sự kiện [[Mùa xuân Praha]] tại Tiệp Khắc, Andropov là người đề xướng chính cho các "biện pháp cực đoan". Ông đã ra lệnh tạo ra những thông tin tình báo giả không chỉ để công bố ra công chúng, mà cho cả Bộ chính trị Liên xô. "KGB tạo ra sự sợ hãi rằng Tiệp Khắc có thể trở thành một nạn nhân của sự gây hấn của [[NATO]] hay một cuộc đảo chính".<ref name="Andrew" /> Ở thời điểm này, sĩ quan tình báo Liên Xô [[Oleg Kalugin]] thông báo từ Washington rằng ông đã tiếp cận được "những tài liệu rất đáng tin cậy cho thấy cả [[CIA]] cũng như bất cứ một cơ quan nào khác không xúi giục phong trào cải cách Tiệp Khắc".<ref name="Andrew" /> Tuy nhiên, thông tin của ông đã bị huỷ bỏ bởi nó trái ngược với [[lý thuyết âm mưu]] do Andropov tạo ra.<ref name="Andrew" /> Andropov đã ra lệnh một số [[biện pháp tích cực]], được gọi là chiến dịch PROGRESS, chống những nhà cải cách Tiệp Khắc.
 
=== Trấn áp phong trào bất đồng tại Liên Xô ===
Dòng 78:
 
== Lãnh tụ Liên bang Xô viết ==
Trong thời cầm quyền của mình, Andropov đã nỗ lực cải thiện nền kinh tế bằng cách tăng hiệu quả quản lý mà không thay đổi các nguyên tắc của [[Kinh tế xã hội chủ nghĩa#Liên bang Xô viết|kinh tế xã hội chủ nghĩa]]. Trái với chính sách tránh xung đột và và gạt bỏ của Brezhnev, ông bắt đầu đấu tranh chống lại những sai phạm trong nguyên tắc đảng, nhà nước và lao động, dẫn tới những thay đổi nhân sự lớn. Trong 15 tháng cầm quyền, Andropov đã loại bỏ 18 bộ trưởng, 37 Bí thư thứ nhất của các Tỉnh ủy (''Областной комитет'' - '''ОБКОМ'''), Khu ủy (''Краевой комитет'' - '''КРАЙКОМ''') và Ủy ban Trung ương các Đảng Cộng sản tại các nước Cộng hoà Xô viết; những [[hồ sơ tội phạm]] ở những cấp bậc cao nhất của nhà nước bắt đầu bị xem xét. Lần đầu tiên, những thực tế về [[Trì trệ Brezhnev|sự trì trệ kinh tế]] và những cản trở với sự phát triển khoa học được thông báo với công chúng và bị chỉ trích.<ref name="GRE">[[Great Russian Encyclopedia]] (2005), [[Moskva]]: Bol'shaya Rossiyskaya Enciklopediya Publisher, vol. 1, p. 742</ref>
 
Trong chính sách đối ngoại, [[Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan|chiến tranh]] tiếp diễn tại [[Afghanistan]]. Thời gian cầm quyền của Andropov cũng được ghi dấu bởi sự xấu đi trong quan hệ với [[Hoa Kỳ]]. Những kế hoạch của Mỹ nhằm triển khai [[tên lửa Pershing]] ở Tây Âu nhằm đối phó các tên lửa [[SS-20]] của Liên xô là vấn đề hay gây tranh cãi. Nhưng khi [[Paul Nitze]], nhà đàm phán Mỹ, đề xuất một kế hoạch hoà giải cho những tên lửa hạt nhân tại châu Âu trong cuộc “đi bộ trong rừng” với nhà đàm phán Liên Xô [[Yuli Kvitsinsky]], người Liên Xô không bao giờ trả lời.<ref>{{chú thích sách
| last = Matlock
| first = Jack F., Jr.
| authorlink =
| coauthors =
| title = Reagan and Gorbachev: How the Cold War Ended
| publisher = [[Random House]]
| year = 2005
| location = New York
| pages = 41–46
| url =
| doi =
| id =
| isbn = 0812974891 (paperback)}}</ref> Kvitsinsky sau này viết rằng, dù có những nỗ lực của riêng ông, phía Liên Xô không chú ý tới sự hoà giải, thay vào đó tính toán rằng các phong trào hoà bình ở phương Tây sẽ buộc người Mỹ phải nhượng bộ.<ref>{{chú thích sách
| last = Kwizinskij
| first = Julij A.
| authorlink =
| coauthors =
| title = Vor dem Sturm: Erinnerungen eines Diplomaten
| publisher = Siedler Verlag
| year = 1993
| location = Berlin
| pages =
| url =
| doi =
| id =
| isbn = 978-3886804641}}</ref> Tháng 8 năm 1983 Andropov đưa ra một thông báo gây xúc động rằng đất nước đã ngừng mọi công việc về các loại vũ khí trên vũ trụ. Một trong những hành động đáng chú ý nhất của ông trong thời gian ngắn làm lãnh đạo Liên Xô là viết thư trả lời một cô bé người Mỹ tên là [[Samantha Smith]], mời cô bé tới Liên bang Xô viết. Kết quả là Smith trở thành một nhà hoạt động vì hoà bình nổi tiếng. Trong lúc ấy những cuộc đàm phán về kiểm soát các loại vũ khí hạt nhân tầm trung ở châu Âu giữa Liên bang Xô viết và Hoa Kỳ đã bị gián đoạn từ phía Liên Xô tháng 11 năm 1983 và tới cuối năm 1983, người Liên xô đã ngừng mọi cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí.<ref>{{chú thích báo
| last = Church
| first = George J.
| coauthors =
| title = Person of the Year 1983: Ronald Reagan and Yuri Andropov
| work =
| pages =
| language =
| publisher = [[TIME Magazine]]
| date = 1984-01-01
| url = http://www.time.com/time/subscriber/personoftheyear/archive/stories/1983.html
| accessdate = 2008-01-02 }}</ref>
 
Căng thẳng thời [[Chiến tranh Lạnh]] gia tăng khi các máy bay chiến đấu Liên xô bắn hạ một chiếc máy bay phản lực chở khách, [[chuyến bay 007 của Korean Air Lines]] với toàn bộ 269 hành khách và phi hành đoàn, gồm cả một dân biểu từ Georgia, [[Larry McDonald]]. KAL 007 đã lạc vào không phận Liên xô ngày 1 tháng 9 năm 1983 trên đường từ Anchorage, Alaska tới Seoul, Hàn Quốc. Andropov đã được Bộ trưởng quốc phòng Dmitri Ustinov và lãnh đạo KGB Victor Chebrikov cố vấn giữ bí mật thực tế rằng Liên Xô đã giữ được "Hộp Đen" từ chiếc KAL 007. Andropov được khuyến khích phát biểu rằng Liên xô tham gia vào sự lừa gạt đó và họ cũng đang tìm kiếm chiếc KAL 007 và Hộp Đen. Andropov đồng ý với điều này và trò bịp đó kéo dài tới khi Boris Yeltsin giải mật vụ việc năm 1992.<ref>[http://www.rescue007.org/TopSecretMemos.htm Four Soviet Top Secret Memos<!-- Bot generated title -->]</ref>
Dòng 138:
Những người duy nhất thường gặp ông là các thành viên Bộ chính trị [[Dmitry Ustinov]], [[Andrey Gromyko]], [[Konstantin Chernenko]] và [[Viktor Chebrikov]].
 
Hai tháng cuối cùng của cuộc đời Andropov ông không thể rời khỏi giường, ngoại trừ khi được nhấc vào một chiếc giường khác để thay tấm ga. Thân thể ông đã kiệt sức nhưng tinh thần còn minh mẫn.{{citation needed|date=December 2008}} Trong những ngày cuối đời Andropov vẫn làm việc thậm chí với cả các công việc ít ý nghĩa như ký giấy tờ hay bày tỏ sự tán thành với các đề xuất của các trợ lý.
 
Ngày 31 tháng 12 năm 1983 Andropov đón Năm mới lần cuối cùng. [[Vladimir Kryuchkov]] cùng với những người bạn khác tới thăm Andropov. Ông cảm thấy vui mừng khi các bác sĩ cho phép uống một cốc [[Champagne (rượu)|champagne]]. Họ ở lại với ông trong một tiếng rưỡi. Sau khi họ đã về, Andropov ở lại một mình cùng Kryuchkov và nói với ông ta rằng ông muốn chúc sức khoẻ và thành đạt tới mọi người bạn. Ở thời điểm đó Kryuchkov hiểu rằng Andropov sắp chết. Tháng 1, thủ tướng tương lai [[Nikolai Ryzhkov]] tới thăm Andropov. Andropov hôn ông và nói ông hãy về.
Dòng 146:
Một lễ quốc tang bốn ngày được công bố. Bên trong nhà tang lễ, những người dự lễ tang đi lên theo một cầu thang bằng đá mable bên dưới những chùm đèn phủ vải đen. Trên bệ, giữa một vườn hoa lớn, một dàn nhạc giao hưởng đầy đủ mặc áo đuôi tôm đen chơi các bản nhạc cổ điển. Thân xác mang tính biểu tượng của Brezhnev, mặc đồ đen, áo sơ mi trắng và cà vạt đen-đỏ, nằm trong một [[quan tài]] mở với các hàng [[hoa cẩm chướng]], [[hoa hồng]] đỏ và [[hoa tulip]], đối diện với một hàng dài những người đưa tang. Ngay bên phải phòng tang lễ, phía trước những hàng ghế dành cho gia đình của vị lãnh đạo, vợ ông - Tatyana Filipovna - với mái tóc đỏ kẹp gọn, ngồi cùng hai người con - Igor và Irina.
 
Ngày 14 tháng 2, tang lễ bắt đầu. Hai sĩ quan dẫn đầu đoàn tang lễ, mang theo một bức chân dung lớn của ông, tiếp đó là một đoàn dài những vòng hoa đỏ. Sau đó những sĩ quan đội những chiếc mũ Astrakhan cao xuất hiện, mang theo 21 huân huy chương của vị lãnh đạo trong một chiếc đệm đỏ nhỏ. Phía sau họ, quan tài nằm trên một thân pháo được kéo bởi một chiếc xe trinh sát quân sự màu xanh. Ngay phía sau các thành viên gia đình Andropov, các thành viên Bộ Chính trị, hầu như không thể phân biệt được ai với ai - tất cả đều đội mũ lông thú và áo choàng cùng các dải băng đỏ trên tay, dẫn theo nhóm những người đưa tang chính thức cuối cùng. Khi quan tài tới giữa Quảng trường Đỏ, nó được đưa ra khỏi thân pháo và được đặt trên một [[đòn đám ma]] đỏ đối diện [[Lăng Lenin]]. Đúng 12:45 chiều thứ 3, quan tài Andropov được hạ xuống đất với những tiếng kèn, tiếng còi báo động, tiếng còi nhà máy và những loạt súng tiễn biệt.
 
[[Konstantin Chernenko]] trở thành người kế nhiệm ông.
Dòng 157:
[http://www.nationalreview.com/comment/pacepa200409200814.asp No Peter the Great. Vladimir Putin is in the Andropov mold], by [[Ion Mihai Pacepa]], [[National Review]], 20 September 2004</ref>
 
Dù lập trường cứng rắn của Andropov trong cuộc [[Sự kiện năm 1956 ở Hungary|nổi dậy tại Hungary năm 1956]] và nhiều vụ trục xuất và mưu đồ mà ông phải chịu trách nhiệm trong thời gian lãnh đạo khá dài tại [[KGB]], ông dần được nhiều nhà bình luận coi là một nhà cải cách nhân văn, đặc biệt khi so với tình trạng [[Trì trệ (Liên Xô)|trì trệ]] và tham nhũng trong những năm cuối thời kỳ cầm quyền của người tiền nhiệm, [[Leonid Brezhnev]]. Andropov, "a throwback to a tradition of Leninist asceticism",<ref name = "D" /> hoảng sợ trước tình trạng tham nhũng thời Brezhnev, và đã ra lệnh điều tra và bắt giữ những kẻ tham nhũng trắng trợn nhất. Những cuộc điều tra gây ra tình trạng sợ hãi đến nỗi nhiều thành viên trong nhóm của Brezhnev "shot, gassed or otherwise did away with themselves."<ref name="D" /> Chắc chắn ông được mọi người coi là nghiêng về biện pháp cải cách từ từ và có tính xây dựng hơn Gorbachev; hầu hết các suy đoán tập trung quanh việc liệu Andropov đã có thể cải cách Liên bang Xô viết theo một cách để không dẫn nó tới [[Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết|sự giải tán cuối cùng]].
 
Truyền thông phương Tây ưa thích Andropov bởi ông được cho là người đam mê âm nhạc và rượu whiskey của phương Tây.<ref>Suny, Ronald Grigor, ''The Soviet Experiment: Russia, the USSR, and the successor states'' Oxford; Oxford University Press, 1998, p. 449</ref>. Tuy nhiên, chúng chỉ là những lời đồn đại không có căn cứ. Một điều cũng đáng nghi ngờ liệu Andropov có biết nói tiếng Anh hay không. *[http://www.edwardjayepstein.com/archived/andropov.htm]
 
[[Tập tin:00595309(Andropov&Jaruzelski).jpeg|nhỏ|180px|Right|Andropov và [[Wojciech Jaruzelski]]]]
Trong thời gian làm lãnh đạo ngắn ngủi của mình, hầu hết ông đều ở trong tình trạng sức khoẻ yếu, khiến những người tham gia tranh luận không có lý lẽ chắc chắn về tình trạng của bất kỳ một sự kéo dài thời gian cầm quyền [[lịch sử thay thế (tưởng tượng)|lý thuyết]] nào không. Như với thời gian cầm quyền ngắn của [[Lenin]], các nhà phân tích có nhiều khoảng trống để ủng hộ các giả thuyết ưa chuộng của mình và phát triển sự [[sùng bái cá nhân]] nhỏ đã được hình thành xung quanh ông.<ref name="remember">{{chú thích web | year = 2006| author = Ilya Milstein | url = http://www.newtimes.ru/eng/detail.asp?art_id=1052 | title = Yury Andropov. A poet of the era of dinosaurs | publisher = New Times | dateformat = dmy | accessdate = 26 September 2006}}</ref>
 
Andropov sống tại 26 [[Kutuzovski prospekt]], cùng căn nhà mà [[Mikhail Suslov|Suslov]] và [[Leonid Brezhnev|Brezhnev]] cũng ở. Đầu tiên ông cưới Nina Ivanovna. Bà sinh cho ông một người con trai và anh ta đã chết trong những hoàn cảnh bí ẩn hồi thập niên 1970. Năm 1983 bà bị chẩn đoán [[ung thư]] và trải qua một cuộc phẫu thuật thành công. Ông gặp người vợ thứ hai, Tatyana Filipovna, trong Thế chiến II tại [[Mặt trận Karelian]] khi bà là một thư ký của [[Komsomol]]. Bà đã bị một cơn [[suy nhược thần kinh]] trong [[Sự kiện năm 1956 ở Hungary]]. Chỉ huy cận vệ của Andropov đã thông báo với Tatyana về cái chết của chồng minh. Bà đã bị tác động quá mạnh để có thể tham gia vào lễ tang và trong buổi lễ những người thân đã phải dìu bà đi. Trước khi quan tài Andropov được đóng lại. Bà đã chạm vào tóc ông và hôn ông một lần nữa. Năm 1985, một bộ phim dài 75 được phát sóng trong đó Tatyana (không xuất hiện trước công chúng từ sau lễ tang Andropov) đọc những bài thơ tình yêu do chồng mình viết. Tatyana ốm và qua đời tháng 11 năm 1991. Andropov có một con trai, Igor (chết tháng 6 năm 2006) và một con gái, Irina (sinh năm 1946).
Dòng 224:
}}
{{DEFAULTSORT:Andropov, Yuri}}
 
[[Thể loại:Sinh 1914]]
[[Thể loại:Mất 1984]]
Hàng 232 ⟶ 231:
[[Thể loại:Chết vì hỏng thận]]
[[Thể loại:Lãnh đạo nhà nước Liên xô]]
[[Thể loại:Anh hùng laoLao động xã hội chủ nghĩa]]
[[Thể loại:Sĩ quan KGB]]
[[Thể loại:Lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên xô]]
Hàng 244 ⟶ 243:
[[Thể loại:Người Nga gốc Do Thái]]
[[Thể loại:Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô]]
[[Thể loại:Đảng viên Đảng Cộng sản]]
[[Thể loại:Người Cộng sản]]