Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại Việt Quốc dân Đảng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 106:
Ngày [[14 tháng 11]] năm [[1964]], một nhóm các đảng viên Đại Việt, chủ yếu là các đảng viên trẻ ở vùng [[Lục tỉnh]], tập hợp và lập ra một chính đảng mới lấy tên là '''[[Đảng Tân Đại Việt]]''', với cờ hiệu giống Đại Việt Quốc dân đảng, nhưng chen một dải màu vàng vào giữa nền đỏ.<ref>[http://www.tandaiviet.org/tdv/ Tân Đại Việt]</ref> Phan Thông Thảo làm Chủ tịch Đảng và Giáo sư [[Nguyễn Ngọc Huy]] giữ chức Tổng thư ký. Nguyễn Ngọc Huy cũng là một người trong phái đoàn [[Việt Nam Cộng hòa]] ở [[Hòa đàm Paris]].<ref>Penniman, Howard R. tr 171</ref> Tân Đại Việt còn lập ra hai tổ chức ngoại vi [[Phong trào Quốc gia Cấp tiến]] để thu hút các thành phần không phải đảng viên nhưng hợp tác được với nhau.
 
Nhóm các đảng viên cũ, thành phần nòng cốt ở khu vực [[Quảng Trị]] và [[Thừa Thiên]] cũng tập hợp lại, đến ngày [[25 tháng 12]] năm [[1965]] ra tuyên cáo thành lập chính đảng với tên mới '''[[Đảng Đại Việt Cách mạng]]'''. Cờ hiệu của Đại Việt Cách mạng cũng thay đổi, giữ sao trắng trong vòng tròn xanh nhưng nửa trên của cờ màu vàngđỏ, nửa dưới màu đỏvàng. [[Hà Thúc Ký]] là Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư của đảng; Trần Việt Sơn làm Phó tổng bí thư.
 
Một nhóm các đảng viên Xứ bộ Nam Việt cũ do ông [[Nguyễn Văn Hướng]], Xứ bộ trưởng đầu tiên nhưng về sau bị truất phế, lãnh đạo, tham gia thành lập [[Liên minh Tự do dân chủ]] với lập trường ủng hộ Tổng thống [[Nguyễn Văn Thiệu]].