Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lưu Vĩnh Phúc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: <references/> → {{tham khảo}} using AWB
Dòng 1:
{{Infobox Military Person
|name=Liu Yongfu (劉永福)
|image=[[Tập tin:Liu Yongfu.jpg|200px|]]
|caption=
|born={{Birth-date|10 tháng 10 năm 1837}}
Dòng 18:
|relations=
}}
 
 
'''Lưu Vĩnh Phúc''' ([[tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]]: 劉永福) ([[1837]]—[[1917]]), tự '''Uyên Đình''', người [[Khâm Châu]], [[Quảng Đông]] (nay thuộc [[Quảng Tây]]), là một quân nhân [[Trung Quốc]] thời kỳ [[nhà Thanh]]. Ông có thể coi là tổng thống thứ nhì và cũng là cuối cùng của [[Đài Loan Dân chủ|Đài Loan dân chủ]] từ ngày 5 tháng 6 năm 1895 cho tới ngày 21 tháng 10 năm 1895.
Hàng 26 ⟶ 25:
 
==Thời kỳ hoạt động ở Việt Nam==
Lưu Vĩnh Phúc vừa đi vừa tuyển thêm quân từ các toán thổ phỉ khác mà không bị ai chặn lại hay ngăn trở gì. Đến gần Sơn Tây, [[Quân Cờ Đen|Quân cờ đen]] khi đó đã lên tới 500 người dừng lại lập doanh trại. Sự hiện diện của một đội quân vũ trang trong lãnh thổ của các bộ tộc [[H'Mông|Mông]] miền núi là một sự đe dọa với họ, nên xung đột vũ trang đã nổ ra. Quân Cờ đen phục kích và đánh bại cuộc tấn công của thổ dân, đồng thời giết chết một thủ lĩnh của họ<ref>Đây có lẽ là cuộc xung đột với quân Bạch Miêu, tức [[quân Cờ trắng]] của Bàn Văn Nhị và Lương Văn Lợi, chiếm cứ vùng Lục Yên ([[Tuyên Quang]])</ref>. Viên thủ lĩnh này chống đối chính quyền [[nhà Nguyễn]], nên nhân cơ hội đó nhà Nguyễn chính thức ban cho Lưu Vĩnh Phúc chức vị ''Cửu phẩm bách hộ'' để tiếp tục công việc bình định vùng này.
 
Tuy vậy, đánh nhau với người thiểu số không phải là mối quan tâm chính của Lưu Vĩnh Phúc, nên năm 1868, Lưu Vĩnh Phúc quay ra tranh giành khu vực thị trấn [[Lào Cai]], tức châu Bảo Thắng, một món mồi béo bở, lúc bấy giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của các thương gia có vũ trang người Quảng Đông. Quân Cờ đen tự tiện thu thuế, khai khoáng, cướp bóc khắp nơi, quan quân nhà Nguyễn cũng không ngăn cản được.
 
Nhận được tin về những thắng lợi dễ dàng của Lưu Vĩnh Phúc, những toán quân còn lại của Ngô Vương, lúc này đang bị quân Thanh dồn ép về gần biên giới, theo Hoàng Sùng Anh (Huang Ch'ung-ying, cháu Ngô Vương) lập thành [[quân Cờ vàng]], tràn qua biên giới chiếm thị trấn [[Hà Giang]] nằm trên bờ [[sông Lô]]. Quân Cờ vàng được tổ chức theo mô hình quân Cờ đen, nhưng với số lượng đông hơn gấp hai, ba lần. Tuy nhiên Hà Giang không phải là một nơi có thể đem lại nhiều lợi nhuận như Lào Cai, nên xung đột giành quyền lợi giữa hai nhóm Cờ đen và Cờ vàng bùng nổ.
 
Năm 1869, quân Cờ đen phục kích đánh tan tác quân Cờ vàng tại Lào Cai, rồi truy quét Cờ vàng đến tận hang ổ tại Hà Giang. Phối hợp với quân Cờ đen là quân nhà Nguyễn và quân Thanh của tướng Phùng Tử Tài, quân Cờ vàng phải tháo chạy khỏi căn cứ Hà Giang. Tuy nhiên, do dịch bệnh và khí hậu khắc nghiệt nên quân Thanh phải rút về, quân Cờ vàng tiếp tục kiểm soát một vùng rộng lớn ở khoảng giữa sông Hồng đến biên giới, từ Lào Cai đến [[Sơn Tây]]. Đến năm 1875, quân Cờ đen mở chiến dịch quyết định đánh chiếm Hà Giang, phối hợp với họ không những là quân nhà Nguyễn mà cả quân Thanh từ Quảng Tây và [[Vân Nam]]. Hoàng Sùng Anh bị truy đuổi, bị bộ hạ làm phản, bị bắt rồi bị giết chết.
 
Do chiến thắng quân Cờ vàng mà quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc chính thức được chính quyền nhà Thanh bảo trợ, ngược lại Lưu Vĩnh Phúc cũng xóa bỏ mặc cảm khi trước, hạ lệnh cho thủ hạ dóc tóc kiểu [[Mãn Châu]] để tỏ lòng trung thành với nhà Thanh. Về phần nhà Nguyễn, mặc dù sử dụng Lưu Vĩnh Phúc nhưng triều đình Huế vẫn còn nghi ngờ về lòng trung thành của Lưu và quân Cờ Đen. Vì vậy, năm 1873, [[Hoàng Kế Viêm|Hoàng Tá Viêm]] xin phong cho Lưu chức Phòng ngự sứ nhưng vua [[Tự Đức]] không đồng ý.
Hàng 43 ⟶ 42:
Dù chủ lực quân Nam ở Bắc kỳ khi đó vẫn còn tập trung ở [[thành cổ Sơn Tây|thành Sơn Tây]], đại úy Garnier vẫn cho xuất quân tiến hành bình định miền châu thổ sông Hồng quanh Hà Nội. Chỉ trong vòng ba tuần, toàn bộ 4 tỉnh miền đồng bằng sông Hồng gồm Hà Nội, [[Hải Dương]], [[Ninh Bình]], [[Nam Định]] với 2 triệu dân cư và một số thành lũy đã rơi vào tay đội quân Pháp chỉ chừng 180 người, chỉ huy bởi viên đại úy hải quân chưa tới 35 tuổi<ref>McAleavy, trang 134. Theo tiểu sử của [[Francis Garnier]] tại [http://www.netmarine.net/bat/batral/fgarnier/celebre.htm đây] thì khi đó ông đã 38 tuổi.</ref>. Có thể kể đến trường hợp thành Ninh Bình với 1.700 binh lính hạ vũ khí đầu hàng một toán quân Pháp chỉ có 7 người. Đến giữa tháng 12, Garnier đã có thể quay lại Hà Nội điều hành công việc hành chính. Ông ta cho tổ chức dân quân của những làng công giáo và chọn lựa quan lại cho những vị trí bị bỏ trống.
 
Triều đình Huế hết sức tức giận vì hành vi tráo trở này, lệnh cho đoàn sứ Đại Nam đang thương nghị ở [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] phản kháng hành động chiếm thành của F.Garnier, yêu cầu thống đốc Dupré ra lệnh cho Garnier rút quân khỏi thành Hà Nội, đồng thời sai chưởng vệ Phan Đề làm đề đốc, Nguyễn Trọng Hợp làm tán lý cùng với Bùi Ấn Niên làm Khâm phái đưa 1.000 quân từ Huế và [[Nghệ An]] ra Bắc tăng cường chống trả quân Pháp. Triều định ra lệnh cho các quan tỉnh ở các khu vực trọng yếu phải đóng cọc xuống các lòng sông thông với sông Hồng để ngăn chận tàu Pháp. Vua Tự Đức cũng sai Trần Đình Túc, Trương Gia Hội cùng với 2 giáo sĩ [[Công giáo]] là giám mục Sovier, linh mục Danzelger ra Hà Nội điều đình với Garnier. Các khâm phái, khâm mạng, các quan cũ ở Hà Nội đều bị cách chức chờ xử phạt.
 
Ngoài ra triều đình Huế cũng phong cho [[phò mã]] [[Hoàng Kế Viêm]] làm Tiết chế Bắc kỳ quân vụ, chuẩn bị hành động trả đũa. Hoàng Kế Viêm là chỉ huy cao cấp nhất của các lực lượng quân Nam tại Bắc Kỳ, và cũng cấp trên trực tiếp của Lưu Vĩnh Phúc, nên ông cho gọi Lưu Vĩnh Phúc, khi đó đang đóng tại [[Hưng Hóa (định hướng)|Hưng Hóa]] về [[Sơn Tây (tỉnh Việt Nam)|Sơn Tây]] làm tiền phong để đánh quân Pháp. Hoàng Kế Viêm vì biết được sự hoang mang tinh thần của quân Nam, nên khích lệ quân Cờ đen bằng cách hứa hẹn thưởng rất nhiều vàng cho mỗi binh lính Pháp bị giết, số lượng vàng sẽ tăng lên theo cấp bậc của kẻ bị giết.
Hàng 50 ⟶ 49:
Ngày 18 tháng 12 năm 1873, quân Cờ đen đã về đến Hà Nội và lập trại chỉ cách Hà Nội chừng 10 đến 12 dặm. Ngày 21 tháng 12, nghe tin quân Cờ đen đang tiến về cửa tây thành Hà Nội, Garnier tức khắc lên mặt thành cho pháo khai hỏa về phía đối phương. Sau nửa giờ bắn phá, quân Nam, gồm chừng năm, sáu trăm quân Cờ đen và rất nhiều quân Việt, có voi chiến và nhiều quan lại đi theo, phải rút chạy. Garnier nhanh chóng tiến ra từ cửa đông nam với 18 lính Pháp và chừng một trung đội lính mộ bản xứ truy đuổi. Tuy nhiên chưa đi khỏi thành được bao xa thì khẩu pháo dã chiến bị sa lầy, Garnier bị một toán quân Cờ đen mai phục sẵn đổ ra đâm chết, tại [[Cầu Giấy|Ô Cầu Giấy]].
 
Garnier bị giết, quân Pháp ở thành Hà Nội lâm vào tình thế hoảng loạn, nếu không nhờ có Linh mục Puginier và Dupuis thì quân Pháp đã bỏ thành theo đường thủy chạy về Sài Gòn. Tuy nhiên cái chết của đại úy Garnier cũng đặt dấu chấm hết cho cuộc phiêu lưu quân sự này tại Bắc Kỳ. Dẫu vậy, cũng chỉ hơn một tháng sau, đại úy Philastre (tên phiêm âm: Hoắc Đạo Sanh), một người học [[chữ Hán|chữ Nho]], công bằng và có tiếng rất thiện chí với phía Việt Nam, được cử ra giải quyết những rắc rối tại Bắc Kỳ đã cho rút hết quân khỏi Hà Nội và trao trả lại Bắc kỳ cho triều đình nhà Nguyễn.
 
[[Tập tin:Garnier1.jpg|nhỏ|360px|phải|Francis Garnier bị quân Cờ đen giết chết tại Cầu Giấy]]
Sau chiến thắng này, Lưu Vĩnh Phúc được thăng lên làm Phó Lãnh binh, chịu sự thống suất của Hoàng Tá Viêm. Các thuộc hạ của Lưu Vĩnh Phúc đều được thưởng quan tước và tiền bạc. Hoàng Tá Viêm sai Lưu Vĩnh Phúc đưa quân rút về chặn ở miền thượng du (Lào Cai), được triều đình Huế cho quyền trông coi việc thông thương và thu thuế ở vùng sông Lô và [[sông Thao]] từ [[Tuyên Quang]] trở xuống. Tới tháng 10 năm Giáp Tuất (1874), theo lời xin của Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc được thăng chức quyền Tam Tuyên quân vụ đề đốc tước vị nam, kiêm coi các đạo và được sai phái đi đánh giặc Cờ Vàng.
 
Triều đình Huế đã tỏ ra rất trọng dụng Lưu Vĩnh Phúc nhưng ông ta vẫn chưa hài lòng. Sáu lần triều đình điều động Lưu Vĩnh Phúc đem quân về Tuyên Quang nhưng ông ta lần lữa không đi, vẫn ở lại Bảo Thắng. Do quan quân nhà Nguyễn bất lực như chính Tự Đức phải thừa nhận: ''Việc dẹp giặc ở Tuyên Quang lấy đạo Lưu Vĩnh Phúc là chính'', nên mặc dù tỏ thái độ bất phụng mệnh, Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Đen trước sau vẫn được nhà Nguyễn để tâm dùng. Nắm được điểm yếu ấy của triều đình Huế, Lưu Vĩnh Phúc luôn ra điều kiện mặc cả về mức ban thưởng quan tước và tiền bạc cho mình và bộ thuộc sau mỗi trận đánh, thậm chí cả việc xin truy phong quan tước cho cha mẹ mình.
Hàng 62 ⟶ 61:
{{Bài chính|Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai}}
[[Tập tin:CitadelleHanoi2.jpg|360px|nhỏ|phải|Quân Pháp tấn công thành Hà Nội]]
Ngày 26 tháng 3 năm 1882, Rivière trên hai thuyền chiến, rời Sài Gòn ra bắc cùng 230 lính, để tăng cường cho đồn binh đóng ở trên sông Hồng. Nhiệm vụ của ông theo mệnh lệnh là giải quyết tranh chấp giữa các thương gia Pháp và chính quyền sở tại, và trừng trị những đám quân ''thổ phỉ'' như quân cờ đen. Tuy nhiên, chủ đích của Rivière lại là chinh phục miền Bắc Kỳ, chứ không phải giải quyết tranh chấp giữa người Pháp và Việt.
 
Ngày 24 tháng 4, sau khi nhận được 250 quân Pháp từ miền Nam đến tiếp viện, Rivière gửi tối hậu thư cho Tổng đốc [[Hoàng Diệu]], đòi giao nộp thành ngay lập tức. Khi Hoàng Diệu còn chưa kịp trả lời, thì pháo thuyền của quân Pháp đã nổ súng bắn vào thành<ref>Việc đánh thành Hà Nội là tự ý Rivière, chứ không nằm trong kế hoạch của Le Myre de Vilers</ref>.
Hàng 69 ⟶ 68:
Được pháo bắn yểm trợ, quân Pháp ồ ạt tràn lên đánh thành. Tổng đốc Hoàng Diệu chỉ huy quân Nam, hạ lệnh liều chết cố thủ, nhưng không có tác dụng. Chỉ sau hai tiếng giao tranh, thành Hà Nội lại một lần nữa rơi vào tay quân Pháp, Tổng đốc Hoàng Diệu thắt cổ tự tử. Quân Pháp thiệt hại không đáng kể, chỉ có bốn người bị thương.
Để đối phó lại sự gây hấn của quân Pháp, Phò mã Hoàng Kế Viêm cho gọi Lưu Vĩnh Phúc từ Quảng Tây về đại bản doanh Sơn Tây bàn kế hoạch chống trả. Tuy nhiên tại cuộc hội kiến Lưu Vĩnh Phúc phàn nàn về thái độ đãi ngộ với ông ta cũng như đưa ra những yêu sách về cung cấp lương thảo và tiền bạc cho quân của mình rồi từ chối phối hợp tác chiến.
 
Tới tháng 2 năm 1883, nhận được 750 quân tăng viện từ Nam kỳ, Rivière cho tiến quân chiếm cảng [[Hòn Gai]] và khu mỏ than có giá trị chiến lược. Trong thời gian đó, Hoàng Kế Viêm cũng không án binh bất động, ông cho tăng cường phòng thủ thành Nam Định, vốn nằm trên tuyến đường thông thương sông Hồng, để ngăn trở người Pháp, đồng thời tuyển mộ thêm 500 lính đánh thuê Trung Quốc để lấp vào chỗ trống của quân Lưu Vĩnh Phúc. Tới ngày 28 tháng 2 (âm lịch, tức 27 tháng 3), Rivière cùng 800 quân, có 8 pháo thuyền và một số tàu bè khác, cũng như một phân đội lính mộ Nam kỳ hỗ trợ, nổ súng đánh thành Nam Định. Quân Nam dù bị hỏa lực Pháp áp đảo, vẫn ngoan cường cố thủ vị trí của mình. Tuy nhiên đến trưa thì quân Pháp hạ được thành, quan tổng đốc Vũ Trọng Bình bỏ chạy, quan đề đốc Lê Văn Điếm tử trận, quan án sát sứ Hồ Bá Ôn bị thương. Phía quân Pháp chỉ có 3 người bị thương, một người trong đó bị chết, nhưng cũng đủ làm Rivière nổi giận, hạ lệnh treo cổ tất cả 50 lính đánh thuê Trung Quốc rơi vào tay ông ta.
Hàng 86 ⟶ 85:
:(Xem thêm [[Chiến tranh Pháp-Thanh|Chiến tranh Pháp Thanh]])
[[Tập tin:Black Flags under French command.jpg|nhỏ|phải|260px|Quân cờ đen sau khi đầu hàng và phục vụ Pháp]]
Trong khi tại Bắc kỳ, các quan lại Việt Nam lúng túng chưa biết đối phó với người Pháp bằng cách nào, thì tình hình tại triều đình Trung Hoa trở nên hết sức sôi động. Nhà Thanh, và đặc biệt là các quan chức cao cấp tại Lưỡng Quảng hết sức lo ngại trước tình hình quân Pháp đánh chiếm và làm chủ Hà Nội, vì như vậy đồng nghĩa với gián tiếp uy hiếp an ninh vùng biên thùy Trung Quốc. Lấy cớ tiễu trừ thổ phỉ, quân đội Vân Nam và Lưỡng Quảng được điều động tiến sát về biên giới, sẵn sàng vượt biên giới tiến sang Bắc kỳ.
 
Người Pháp cũng lấy làm lo ngại việc nhà Thanh định can thiệp vào cuộc chinh phục Bắc kỳ, đặc biệt là sự di chuyển binh lính đến sát biên giới Trung Hoa-Bắc kỳ. Đại sứ Pháp Bourée tại Trung Hoa tiến hành một cuộc gặp mặt với Tổng đốc Trực Lệ (Zhili-tức vùng [[Bắc Kinh]]) Lý Hồng Chương, trong đó hai bên tính đến khả năng đặt vùng Lào Cai về tay nhà Thanh để lập một trạm thuế quan mà giao thông và hàng hóa muốn vào Vân Nam phải đi qua, cũng như thiết lập một đường phân giới dọc theo sông Hồng, theo đó phần phía bắc sẽ do nhà Thanh quản lý, phần phía nam thuộc về Pháp. Tuy nhiên chính phủ của Thủ tướng Jules Ferry không đồng ý phê chuẩn hiệp nghị này và triệu hồi Đại sứ Bourée về nước.
Hàng 109 ⟶ 108:
 
==Chú thích==
{{tham khảo}}
<references/>
 
==Sách tham khảo==