Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thuyết ưu sinh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Tập tin EnthanasiePropaganda.jpg đã bị bỏ ra khỏi bài vì nó đã bị xóa ở Commons bởi Fastily vì lý do Per commons:Commons:Deletion requests/File:EnthanasiePropaganda.jpg. |
n clean up, replaced: → (60) using AWB |
||
Dòng 2:
==Tổng quan==
Với tư cách là một phong trào xã hội, thuyết ưu sinh đạt đến đỉnh cao danh tiếng vào các thập niên đầu thế kỷ 20. Đến cuối [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], thuyết ưu sinh phần lớn đã bị từ bỏ.<ref>See Black, cited below</ref> Các xu hướng hiện nay trong di truyền học đặt ra các câu hỏi với giới học giả về mối quan hệ song hành giữa các thái độ thời tiền chiến về thuyết ưu sinh và những lý thuyết "vị lợi" và lý thuyết xã hội hiện nay về Chủ nghĩa Darwin.<ref>Duster, Troy
Thuyết ưu sinh được thực hành khắp thế giới và được khuyến khích bởi các chính phủ, các thể chế và các cá nhân có tầm ảnh hưởng. Những người tán thành xem thuyết ưu sinh như một triết học xã hội nhằm cải thiện các đặc tính di truyền của con người thông qua gia tăng sinh sản của một vài cá thể và đặc tính (tốt) và giảm bớt vài cá thể và đặc tính khác.<ref name="Osborn1937">The exact definition of ''eugenics'' has been a matter of debate since the term was coined. In the definition of it as a "social philosophy" -- that is, a philosophy with implications for social order -- is not meant to be definitive, and is taken from "Development of a Eugenic Philosophy" by [[Frederick Osborn]] in ''[[American Sociological Review]]'', Vol. 2, No. 3 (Jun., 1937) , pp. 389–397.</ref>
Ngày nay, thuyết ưu sinh được xem là một phong trào tàn bạo đã gây ra những xâm phạm [[nhân quyền|quyền con người]] nghiệm trọng đối với hàng triệu người.<ref>See for example EMBO Reports, European Molecular Biology Organization "In the name of science – the role of biologists in Nazi atrocities:
Việc thực hiện thuyết ưu sinh bao gồm những xâm phạm đời sống riêng tư, xâm phạm quyền được sống, được lập gia đình và quyền tự do, tất cả những xâm phạm này ngày nay đều được xếp vào những xâm phạm về [[nhân quyền]]. Việc thực hiện những mặt tiêu cực của thuyết ưu sinh ngày nay đều được liệt vào tội diệt chủng quốc tế, theo [[Công ước về Ngăn ngừa và Trừng phạt tội Diệt chủng]].<ref>Article 2 of the Convention defines genocide as any of the following acts committed with [[Genocidal intent to destroy|intent to destroy]], [[Genocide#In part|in whole or in part]], a national, ethnic, racial or religious group, as such:
Dòng 18:
Thuật ngữ thuyết ưu sinh (eugenics) được đưa ra bởi nhà nhân chủng học người Anh [[Francis Galton]] năm 1883,<ref>{{chú thích sách
[[G. K. Chesterton]] là một trong những nhà phê bình triết học về ưu sinh đầu tiên, ông thể hiện quan điểm trong cuốn sách, Eugenics and Other Evils. Thuyết ưu sinh trở thành một môn học tại rất nhiều trường đại học và cao đẳng, và nhận được rất nhiều nguồn hỗ trợ.<ref>Allen, Garland E., [http://www.nature.com/embor/journal/v5/n5/full/7400158.html Was Nazi eugenics created in the US?], Embo Reports, 2004</ref> Ba [[Hội nghị Ưu sinh học Quốc tế]] được tổ chức ở [[Luân Đôn|London]] năm 1912 và ở [[Thành phố New York|New York]] năm 1921 và 1932. Các chính sách ưu sinh được thực hiện lần đầu ở [[Hoa Kỳ]] vào đầu thập niên 1900.<ref>Deborah Barrett and Charles Kurzman. Oct., 2004. ''Globalizing Social Movement Theory: The Case of Eugenics.'' Theory and Society, Vol. 33, No. 5, pp. 505</ref> Sau đó, tới các thập niên 1920 và 1930, chính sách ưu sinh với phương pháp [[triệt sản]] đối với bệnh nhân tâm thần được thực hiện ở nhiều quốc gia, bao gồm [[Bỉ]],<ref>''Science'', New Series, Vol. 57, No. 1463 (Jan. 12, 1923), p. 46</ref> [[Brasil]],<ref>Sales Augusto dos Santos and Laurence Hallewell. Jan., 2002. ''Historical Roots of the "Whitening" of Brazil.'' Latin American Perspectives, Vol. 29, No. 1, Brazil: The Hegemonic Process in Political and Cultural Formation, pp. 81</ref> [[Canada]]<ref>McLaren, Angus. 1990. ''Our Own Master Race: Eugenics in Canada, 1885–1945.'' McClelland and Steward Inc. Toronto.</ref> và [[Thụy Điển]],<ref name="wsws">{{Cite document|title=Social Democrats implemented measures to forcibly sterilise 62,000 people|publisher=World Socialist Web Site|url=http://www.wsws.org/articles/1999/mar1999/euge-19m.shtml|ref=harv|postscript=<!--None-->}}</ref> cùng nhiều quốc gia khác. Danh tiếng khoa học của thuyết ưu sinh bắt đầu suy giảm vào thập niên 1930 khi mà [[Ernst Rüdin]] sử dụng thuyết ưu sinh để bào chữa cho các chính sách chủng tộc của [[Đức Quốc Xã|Đức Quốc xã]], đồng thời với đó là sự phản đối dữ dội từ cộng đồng những nhà khoa học và tư tưởng ủng hộ thuyết ưu sinh. Tuy nhiên ở Thụy Điển, chương trình về ưu sinh vẫn được thực hiện cho tới năm 1975.<ref name="wsws"/>
Dòng 56:
Những nhà ưu sinh học thời đầu phần lớn quan tâm tới yếu tố [[trí thông minh]], yếu tố thường có tương quan mạnh mẽ với [[giai cấp|giai cấp xã hội]]. Nhiều nhà ưu sinh thường xem việc chọn lọc giống của động vật tương tự như việc cải thiện xã hội loài người. Hòa trộn chủng tộc thường được xem là điều phải tránh theo quan niệm về [[thuần chủng]]. Tại thời điểm đó, khái niệm này có vẻ nhận được sự ủng hộ về mặt khoa học và là vấn đề gây tranh cãi cho đến khi di truyền học phát triển tiến độ và đạt được một sự đồng thuận khoa học cho rằng rằng sự phân chia của loài người thành các chủng tộc không đồng đều là không có cơ sở.
Thuyết ưu sinh cũng quan tâm đến việc loại bỏ các bệnh di truyền như [[bệnh ưa chảy máu]] hay [[bệnh Huntington]]. Tuy nhiên, vấn đề là việc xác định các yếu tố được coi là khuyết điểm gen. Trong nhiều trường hợp, không có một sự thống nhất khoa học thế nào là một khuyết điểm gen. Nó thường được coi như là một lựa chọn cá nhân và xã hội nhiều hơn. Cái có vẻ là một khuyết điểm gen ở một trường hợp và môi trường này lại không phải là khuyết điểm gen ở trường hợp và môi trường khác. Dù một vài khuyết điểm bẩm sinh có thể gây chết người, nhưng người khuyết tật vẫn có thể thành công trong cuộc sống. Nhiều trường hợp các nhà ưu sinh thời đầu cho rằng là do di truyền (như bệnh [[pellagra]]) nhưng hiện nay lại được coi là hoàn toàn hoặc ít nhất một phần là do yếu tố môi trường.
Các chính sách ưu sinh về mặt khái niệm được chia làm hai dạng. Ưu sinh dương với mục tiêu sinh sản đối với những cá thể gen tốt. Các biện pháp có thể bao gồm khuyến khích về tài chính và chính trị, phân tích nhân khẩu có mục tiêu, [[thụ tinh trong ống nghiệm]], cấy trứng và nhân bản.<ref name = "mywdhq">Glad, 2008</ref> Ưu sinh âm với mục tiêu là giảm sinh sản đối với những người không có lợi thế về gen, các biện pháp bao gồm [[triệt sản]], phá thai và [[kế hoạch hóa gia đình]].<ref name = "mywdhq"/> Cả ưu sinh dương và âm đều có thể là các phương pháp ép buộc. Việc phá thai của phụ nữ khỏe mạnh ở [[Đức Quốc Xã|Đức Quốc xã]]<ref>[http://books.google.co.uk/books?id=nW2aE5-rAMsC&pg=PA19&dq=abortion+nazi&hl=fr&ei=QI4iTcCKONCzhAfF3fW2Dg&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=5&ved=0CDcQ6AEwBA#v=onepage&q=abortion%20nazi&f=false page 10 of Nazi family policy, 1933-1945
Trong thế kỷ 20, nhiều quốc gia đưa ra các chương trình và chính sách ưu sinh khác nhau, bao gồm: [[sàng lọc gen]], [[kiểm soát sinh sản]], khuyến khích tỉ lệ sinh phân biệt, hạn chế hôn nhân, cách ly, triệt sản, buộc phá thai và buộc mang thai. Phần lớn các chính sách này được xem là ép buộc.
Dòng 67:
Sir [[Francis Galton]] là người đã hệ thống hóa các ý tưởng và phương thức dựa trên những hiểu biết của lý thuyết về tiến hóa của con người và động vật của [[Charles Darwin]] trong thập niên 1860 và 1870. Sau khi đọc cuốn sách [[Nguồn gốc các loài]] của Darwin, Galton xây dựng dựa trên những ý tưởng của Darwin trong đó nêu rằng các cơ chế của [[sự chọn lọc tự nhiên]] có thể bị cản trở bởi văn minh con người. Galton cho rằng, do các xã hội thường bảo vệ những người kém may mắn và yếu thế, các xã hội đó đi ngược lại với sự chọn lọc của tự nhiên vốn sẽ làm loại bỏ những cá thể yếu kém nhất; và chỉ bằng cách thay đổi các chính sách này thì những xã hội đó mới tránh khỏi "trở lại với sự tầm thường", một cụm từ mà ông đã nêu ra trong [[ơkhoa học thống kê]] và sau đó được biến đến một cách rộng rãi là "hồi quy về điểm trung bình".<ref>See Chapter 3 in [[Donald A. MacKenzie]], ''Statistics in Britain, 1865–1930: The social construction of scientific knowledge'' (Edinburgh: Edinburgh University Press, 1981).</ref>
Galton lần đầu phác thảo lý thuyết của mình trong bài viết "Hereditary Talent and Character" (Tài năng và Đặc điểm Di truyền), sau đó ông phân tích rõ hơn trong cuốn sách xuất bản năm 1869 với tiêu đề ''Hereditary Genius'' (Thiên tài Di truyền).<ref>Francis Galton, [http://www.mugu.com/galton/essays/1860-1869/galton-1865-hereditary-talent.pdf "Hereditary talent and character"], ''Macmillan's Magazine'' 12 (1865): 157–166 and 318–327; [[Francis Galton]], [http://www.mugu.com/galton/books/hereditary-genius/ ''Hereditary genius: an inquiry into its laws and consequences''] (London: Macmillan, 1869).</ref> Ông bắt đầu với việc nghiên cứu cách thức mà các đặc tính cá nhân, đạo đức và trí tuệ diễn ra trong gia đình như thế nào. Lý luận cơ bản của Galton là "thiên tài và tài năng là các đặc tính di truyền trong con người". Ông kết luận rằng vì con người có thể sử dụng sự chọn lọc nhân tạo để làm tăng những đặc tính trong các loài động vật khác, thì con người cũng có thể áp dụng khuôn mẫu đó với chính bản thân con người.
Galton cho rằng những người thông minh hơn thường có khả năng sinh sản kém hơn những người ít thông minh hơn. Galton không đưa ra một phương pháp chọn lọc nào, ông cho rằng một giải pháp có thể được tìm ra nếu tập tục xã hội thay đổi nhằm khuyến khích con người nhìn nhận tầm quan trọng của sinh sản. Ông sử dụng từ ''eugenic'' (ưu sinh) lần đầu tiên trong cuốn sách ''Inquiries into Human Faculty and Its Development'' xuất bản năm 1883.<ref>{{harvnb|Larson|2004|p=179}} "Galton coined the word "eugenics" in his 1883 book, ''Inquiries into Human Faculty and Its Development''.</ref>
Dòng 78:
[[Hình:Galton class eugenics.svg|phải|nhỏ|400px|Sự phân loại cấu trúc xã hội của Galton là nền tảng cho phong trào ưu sinh ở Anh.]]
Tại [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Vương quốc Anh]], thuyết ưu sinh chưa bao giờ nhận được sự tài trợ lớn từ nhà nước, nhưng nó lại nhận được sự ủng hộ trong thời kỳ trước Thế chiến I của nhiều nhân vật nổi tiếng, bao gồm: nhà kinh tế học tự do [[William Beveridge]] và [[John Maynard Keynes]]; những người theo [[Hội Fabian|chủ nghĩa xã hội Fabian]] như nhà văn [[Cộng hòa Ireland|Ireland]] [[George Bernard Shaw]], [[H. G. Wells]] và [[Sidney Webb]]; thủ tướng tương lai [[Winston Churchill]]; những người theo khuynh hướng bảo thủ như [[Arthur Balfour]].<ref name=Okuefuna>{{chú thích web
Thuyết ưu sinh nhấn mạnh nhiều về [[giai cấp|giai cấp xã hội]] hơn là [[chủng tộc]].<ref name="rnwmif">{{chú thích tạp chí|last=Porter|first=Dorothy|year=1999|title=Eugenics and the sterilization debate in Sweden and Britain before World War II|journal=Scandinavian Journal of History|volume=24|pages=145–62|issn=03468755|doi=10.1080/03468759950115773|ref=harv}}</ref> Chính [[Francis Galton]] từng thể hiện những quan điểm này trong một bài thuyết trình năm 1901 trong đó ông phân xã hội Anh thành các nhóm. Những nhóm này thể hiện tỉ lệ người trong xã hội rơi vào trong mỗi nhóm và giá trị gen có thể nhận thức được của những nhóm này. Galton cho rằng ưu sinh âm chỉ nên áp dụng cho nhóm xã hội thấp nhất ("không mong muốn"), trong khi ưu sinh dương nên được áp dụng cho các tầng lớp cao hơn. Tuy vậy, ông vẫn ghi nhận vai trò của tầng lớp lao động đối với xã hội và công nghiệp.
Dòng 95:
===Hoa Kỳ===
Một trong những người ủng hộ thuyết ưu sinh đầu tiên (trước khi nó được gọi như vậy) ở [[Hoa Kỳ]] là [[Alexander Graham Bell]]. Năm 1881, Bell điều tra tỉ lệ người bị điếc ở [[Martha's Vineyard]], [[Massachusetts]]. Trong bài thuyết trình ''Memoir upon the formation of a deaf variety of the human race'' trước [[Viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ]] ngày 13 tháng 11 năm 1883,<ref>{{chú thích web |author=Bell, Alexander Graham|title=Memoir upon the formation of a deaf variety of the human race
Khi khoa học phát triển trong thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu đã thực hiện một số nghiên cứu để cung cấp tài liệu về tính di truyền của các bệnh như [[tâm thần phân liệt]], rối loạn lưỡng cực và [[trầm cảm]]. Các phát hiện này đã được phong trào ưu sinh sử dụng như bằng chứng. Những luật thuộc bang được đưa ra vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cấm hôn nhân và ép buộc triệt sản đối với những người tầm thần nhằm ngăn cản việc "truyền lại" các bệnh thần kinh cho các thế hệ sau. Các luật này được [[Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ|Tòa án Tối cao Hoa Kỳ]] ủng hộ và đến giữa thế kỷ 20 mới bị hủy bỏ. Tổng cộng, có 60.000 người Mỹ đã bị triệt sản.<ref name="sfgate"/>
[[Hiệp hội Hạn chế Nhập cư]] (thành lập năm 1894) là thể chế đầu tiên chính thức gắn với thuyết ưu sinh. Mục tiêu của hội này là ngăn cản những người thoái hóa gen từ các chủng tộc khác nhập cư vào Mỹ và làm loãng vốn gen "thượng đẳng" của người Mỹ. Họ vận động hành lang nhằm đưa ra các bài kiểm tra biết chữ đối với người nhập cư, dựa trên niềm tin rằng các "chủng tộc hạ đẳng" có tỉ lệ biết chữ thấp. Các bản dự thảo kiểm tra biết chữ bị tổng thống phủ quyết vào các năm 1897, 1913 và 1915; cuối cùng, lần phủ quyết thứ 2 của tổng thống Wilson bị quốc hội bác bỏ năm 1917.
[[Hình:Anthropometry exhibit.jpg|250px|nhỏ|Một phương pháp [[Nhân trắc học]] được thể hiện trong một hội nghị ưu sinh học năm 1921.]]
Dòng 107:
Điều luật ưu sinh được thông qua ở Mỹ là do sự chấp nhận phong trào ưu sinh một cách rộng rãi của công chúng, đi đầu với những nỗ lực của các nhà cải cách tiến bộ.<ref name="ncbi.nlm.nih.gov">http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/2698847</ref> Over 19 million people attended the Panama-Pacific International Exposition in San Francisco, open for 10 months from February 20 to December 4, 1915.<ref name="ReferenceA">Eugenic Nation: Faults and Frontiers of Better Breeding in Modern America, Alexandra Minna Stern, University of California Press, 2005</ref> Gần 19 triệu người tham gia triển lãm quốc tế Panama-Pacific ở [[San Francisco]], mở cửa trong 10 tháng từ 20 tháng 2 tới 4 tháng 12 năm 1915. Triễn lãm này là một hội chợ nhằm tán dương các giá trị của một xã hội tiến bộ, giới thiệu những phát triển mới trong khoa học, công nghiệp, sản xuất và công nghệ. Một chủ đề nhận được nhiều thời gian và không gian là những sự tiến bộ liên quan tới sức khỏe và bệnh tật, đặc biệt là y học nhiệt đới và cải thiện chủng tộc. Các chủ đề được gắn kết với nhau và được phân loại vào chủ đề chính của hội chợ, sự tiến bộ của văn minh. Vì thế, trong mắt công chúng, những lĩnh vực có vẻ như đối nghịch nhau được giới thiệu dưới các khẩu hiệu tiến bộ và làm cho công chúng tin rằng đấy là ngành nghiên cứu để cải thiện xã hội Hoa Kỳ.<ref>Eugenic Nation: Faults and Frontiers of Better Breeding in Modern America, Alexandra Minna Stern, University of California Press, 2005, pg 27–31</ref>
Bang [[California]] là nơi tiên phong cho phong trào ưu sinh ở Mỹ, bang này thực hiện khoảng 20.000 ca triệt sản, chiếm một phần ba trong tổng 60.000 ca ở Mỹ từ năm 1909 tới thập niên 1960.<ref name="ReferenceA"/> Khoảng thập niên 1910, một mạng lưới rộng lớn các nhà khoa học, nhà cải cách, chuyên gia tham gia các chương trình ưu sinh quốc gia và thúc đẩy dự luật ưu sinh.
Khi những người đứng đầu chế độ Phát xít hầu tòa vì tội ác chiến tranh ở [[Nürnberg|Nuremberg]] sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], họ
Ý tưởng về "thiên tài" và "tài năng" cũng dành được sự quan tâm của [[William Graham Sumner]], người sáng lập Hội Xã hội học Hoa Kỳ. Ông cho rằng nếu chính phủ không can thiệp vào chính sách ''laissez-faire'', một tầng lớp thiên tài sẽ vươn lên đầu của hệ thống phân tầng xã hội, theo sau bởi một tầng lớp tài năng. Phần còn lại của xã hội sẽ rơi vào nhóm tầm thường. Những người bị cho là có khiếm khuyết (tâm thần, tàn tật..) sẽ có ảnh hưởng tiêu cực lên sự tiến bộ xã hội vì những người này có thể làm cạn kiệt các tài nguyên cần thiết. Họ nên bị bỏ mặc để tự chìm. Còn những người thuộc tầng lớp tội phạm (bao gồm tội phạm, người lệch chuẩn..) nên bị loại bỏ khỏi xã hội ("Folkways", 1907).
Tuy nhiên, các phương pháp ưu sinh được áp dụng để công thức hóa lại định nghĩa về thuần chủng da trắng trong luật pháp bang cấm kết hôn khác chủng tộc, một luật gọi là cấm hôn nhân khác chủng được ban hành. Một ví dụ tiêu biểu nhất về ảnh hưởng của thuyết ưu sinh đối với phân biệt chủng tộc là [[Luật Toàn vẹn Chủng tộc năm 1924]]. [[Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ|Tòa án Tối cao Hoa Kỳ]] bỏ luật này năm 1967 và tuyên bố đây là một luật phi hiến pháp.
Với sự thông qua của [[Luật Nhập cư năm 1924]], các nhà ưu sinh học lần đầu tiên đóng vai trò là cố vấn chuyên gia trong các cuộc thảo luận của Quốc hội về nguy cơ
[[Stephen Jay Gould]] khẳng định điều luật hạn chế nhập cư thông qua trong thập niên 1920 được thúc đẩy bởi các mục tiêu của thuyết ưu sinh. Trong đầu thế kỷ 20, Mỹ và [[Canada]] đều nhận thêm một lượng lớn dân nhập cư từ Đông và Nam Âu. Các nhà ưu sinh có ảnh hưởng như [[Lothrop Stoddard]] và [[Harry Laughlin]] biện luận rằng luồng nhập cư này sẽ làm ô nhiễm vốn gen quốc gia nếu số lượng không được hạn chế. Điều này được phần nào đó được cho có đóng vai trò trong việc cả Canada và Mỹ thông qua các điều luật phân loại thứ bậc quốc tịch, từ những người được ưu tiên nhập tịch nhất là người [[Anglo-Saxon]] và [[Chủng Nordic|người Nordic]] cho tới những người Trung Quốc và Nhật Bản, những người gần như bị cấm nhập cư vào Mỹ.<ref>See Lombardo, "Eugenics Laws Restricting Immigration"; and [[Stephen Jay Gould]], ''The mismeasure of man'' (New York: Norton, 1981).</ref>
Dòng 162:
Ngoài ra, những trẻ em có "giá trị chủng tộc" từ các quốc gia bị chiếm đóng cũng bị tách biệt khỏi cha mẹ và được người Đức nhận nuôi. Rất nhiều quan ngại về ưu sinh và thanh trừng chủng tộc cũng được thể hiện qua việc sát hại có hệ thống hàng triệu người "không mong muốn", đặc biệt là [[người Do Thái]], [[người Di-gan]] trong [[Holocaust]].<ref name=Britannica>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/269548/Holocaust "Holocaust", ''Encyclopaedia Britannica'', 2009]: "the systematic state-sponsored killing of six million Jewish men, women, and children and millions of others by Nazi Germany and its collaborators during World War II ... The Nazis also singled out the Roma (Gypsies). They were the only other group that the Nazis systematically killed in gas chambers alongside the Jews."</ref> Phạm vi và tính cưỡng bách trong các chương trình ưu sinh của Đức Quốc xã đã tạo ra một sự gắn kết không thể gột sạch giữa thuyết ưu sinh và [[Đức Quốc Xã|Đức Quốc xã]] trong các năm hậu chiến.<ref>See Proctor, ''Racial hygiene'', and Kuntz, ed., ''Deadly medicine.''</ref>
Hai học giả, [[John Glad]] và [[Seymour W. Itzkoff]] thuộc [[Đại học Smith]], đã đặt câu hỏi về mối quan hệ giữa thuyết ưu sinh và Holocaust. Họ lý luận rằng, đối nghịch với niềm tin phổ biến, Hitler không coi người Do Thái là chủng người hạ đẳng về trí tuệ và không đưa người Do Thái vào trại tập trung vì những lý do này. Họ cho rằng Hitler có những lý do khác cho các chính sách diệt chủng người Do Thái.<ref>[http://theoccidentalquarterly.com/archives/vol4no1/rl-black.html TOQ-Richard Lynn-Black BR-Vol 4 No 1<!-- Bot generated title -->]</ref>
|url = http://64.233.183.104/search?q=cache:9N0JmKW9S_4J:www.whatwemaybe.org/txt/Glad.John.2008.FHE.Meisenberg-abridgement.doc+itzkoff+antithesis+eugenic+practice&hl=en&ct=clnk&cd=5&gl=se&client=firefox-a
|title = Future Human Evolution: Eugenics in the Twenty-First Century
|