Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sơn Tây”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up, replaced: → (61), → (43) using AWB
Dòng 1:
{{Infobox PRC province
| Header = '''山西省 <br />Tỉnh Sơn Tây'''
| Name = Sơn Tây
| Abbreviation = 晋 Tấn
| AbbrevPinyin = Jìn
| ISOAbbrev = 14
| OriginOfName = 山 sơn - núi <br />西 tây - phía tây <br />"phía tây của [[Thái Hành Sơn]]"
| AdministrationType = [[Tỉnh (Trung Quốc)|Tỉnh]]
| Capital = [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]]
| LargestCity = [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]]
| Secretary = [[Viên Thuần Thanh]] 袁纯清
| Governor = [[Lý Tiểu Bằng (nhân vật chính trị)|Lý Tiểu Bằng]] 李小鹏
| Bildname = Shanxi in China (+all claims hatched).svg
| Area = 156.800
| AreaRank = 19
| PopYear = 2010
| Pop = 35.712.111
| PopRank = 18
| PopDensity = 229
| PopDensityRank = 20
| GDPYear = 2011
| GDP = 1,11 nghìn tỉ
| GDPRank = 21
| GDPperCapita = 31.357
| GDPperCapitaRank = 18
| HDIYear = 2008
| HDI = 0,800
| HDIRank = 16
| HDICat = <font color="#ffcc00">cao</font>
| Nationalities = [[người Hán|Hán]] – 99,7%<br />[[người Hồi|Hồi]] – 0,2%
| Dialects = [[tiếng Tấn]], [[Quan thoại Trung Nguyên]]
| Prefectures = 11
| Counties = 119
| Townships = 1388
| Website = [http://www.shanxigov.cn www.shanxigov.cn] ([[Tiếng Trung Quốc|Tiếng Trung]])
}}
'''Sơn Tây''' ({{zh-cpw|c=山西|p=Shānxī|w=Shan-hsi}}, {{Audio|zh-Shanxi.ogg|nghe}}; [[bính âm bưu chính]]: ''Shansi'') là một [[tỉnh (Trung Quốc)|tỉnh]] ở [[Hoa Bắc|phía bắc]] của [[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa|Trung Quốc]]. [[Giản xưng]] của Sơn Tây là “Tấn” (晋), theo tên của [[tấn (nước)|nước Tấn]] tồn tại trong thời kỳ [[Nhà Chu|Tây Chu]] và [[Xuân Thu]].
 
Tên gọi Sơn Tây có nghĩa là “phía tây núi”, ý đề cập đến vị trí của tỉnh ở phía tây của [[Thái Hành Sơn]].<ref>{{chú thích web|title=趣味文字:中国各省及自治区名称历史由来和变化|url=http://www.people.com.cn/GB/shenghuo/1090/2435218.html|publisher=人 民 网|accessdate=2013-01-24}}</ref> Sơn Tây giáp [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]] về phía đông, [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]] về phía nam, [[Thiểm Tây]] về phía tây và [[Nội Mông]] về phía bắc. Tỉnh lỵ của Sơn Tây là thành phố [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]].
 
== Lịch sử ==
Dòng 45:
Theo [[Sử ký Tư Mã Thiên|Sử ký]], khi [[Chu Công Đán]] phụ chính [[Chu Thành vương|Chu Thành Vương]], có một chư hầu là nước Đường nổi loạn, Chu công Đán mang quân tiêu diệt. Sau đó, Chu Thành Vương bèn chính thức phong cho Cơ Ngu làm vua chư hầu nước Đường, gọi là [[Đường Thúc Ngu]]. Đất Đường ở khu vực phía đông [[Hoàng Hà]] và [[sông Phần|Phần Hà]], sau này nước Đường đổi tên thành [[tấn (nước)|nước Tấn]]. Thời kỳ đầu [[Nhà Chu|Tây Chu]], lãnh thổ của [[ân (nước)|nước Ân]] bao gồm một phần đông nam bộ tỉnh Sơn Tây ngày nay; [[Hàn (nước Tây Chu)|nước Hàn]] tập trung quanh khu vực Hàn Thành thuộc tỉnh Thiểm Tây và [[Hà Tân, Vận Thành|Hà Tân]] thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay.
[[Tập tin:春秋诸侯分布图(晋国).png|nhỏ|trái|Bản đồ [[tấn (nước)|nước Tấn]] (晋) thời [[Xuân Thu]], phần lớn lãnh thổ thuộc Sơn Tây ngày nay]]
Năm 805 TCN, [[Tấn Mục hầu]] nghe lệnh [[Chu Tuyên vương]], đem quân đánh [[Tây Nhung|tộc Nhung]], năm 802 TCN, ông đánh thắng đất Thiên Mẫu. Thời Xuân Thu, đại bộ phận tỉnh Sơn Tây thuộc về nước Tấn. Đến thời [[Tấn Văn công]], nước Tấn xưng bá [[Trung Nguyên]]. Các kinh đô của Tấn trước sau đều nằm trên địa phận Sơn Tây: Đường (sau gọi là Tấn)<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]], Sơn Tây)</ref>, Khúc Ốc <ref group="chú">nay thuộc huyện [[Khúc Ốc]], Sơn Tây</ref>, Giáng (còn gọi là Dực)<ref group="chú">nay thuộc đông nam huyện [[Dực Thành]], Sơn Tây</ref>, Tân Giáng (nguyên gọi là Tân Điền)<ref group="chú">nay thuộc huyện cấp thị [[Hầu Mã]], Sơn Tây</ref> Đầu thời Đông Chu, hai chi trưởng – thứ nước Tấn tại đất Dực và đất Khúc Ốc đã nổ ra chiến tranh giành ngôi vị quân chủ. Chiến tranh kéo dài gần 100 năm, trải qua 4 thế hệ mới kết thúc bằng thắng lợi của chi thứ Khúc Ốc với kết quả 5 vua Tấn ngành trưởng bị giết. Các [[lục khanh|khanh tộc]] tại nước Tấn về sau tiến hành tranh chấp quyền lực với nhau, lấn át cả vua Tấn. Năm 453 TCN, trong [[trận Tấn Dương]], ba nhà Triệu, Hàn, Ngụy hợp binh đánh bại quân họ Trí, ba nhà này sau đó cùng chia đất của họ Trí và nắm quyền nước Tấn. Nước Tấn sau đó hình thành cục diện bị chia ba, đến năm 403 TCN thì nước Tấn diệt vong, đây cũng là mốc thời gian mà nhiều học giả nhận định là khởi đầu thời kỳ [[Chiến Quốc]], cũng vì nguyên do này mà Sơn Tây còn được gọi là "Tam Tấn".
 
Thời [[Chiến Quốc]], [[triệu (nước)|nước Triệu]] đặt kinh đô tại Tấn Dương<ref group="chú">nay thuộc Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây</ref>, [[hàn (nước)|nước Hàn]] đặt kinh đô tại Bình Dương<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị Lân Phần, tỉnh Sơn Tây</ref>, [[ngụy (nước)|nước Ngụy]] trong thời gian 403 TCN-361 TCN đặt đô thành tại An Ấp<ref group="chú">nay thuộc tây bắc [[Hạ (huyện)|huyện Hạ]], tỉnh Thiểm Tây</ref> Sau trung kỳ Chiến Quốc, kinh đô của Triệu và Ngụy phân biệt di dời đến địa phận Hà Bắc và Hà Nam ngày nay.
Dòng 54:
Năm 216, [[Tào Tháo]] phân người Hung Nô ở Sơn Tây ngày nay thành 5 bộ: Tịnh châu Tư thị (tại [[Phần Dương]] ngày nay) là tả bộ, Kì (tại [[Kỳ (huyện)|huyện Kỳ]] ngày nay) là hữu bộ, Bồ Tử (tại [[Thấp (huyện)|huyện Thấp]] ngày nay) là nam bộ, Tân Hưng (tại [[Hãn Châu]] ngày nay) là bắc bộ, Đại Lăng (tại [[Văn Thủy, Lữ Lương|Văn Thủy]] ngày nay) là trung bộ, nhân khẩu đạt vài trăm nghìn người. Ngoài ra, trên địa bàn Sơn Tây còn có người [[Yết]] ở [[Vũ Hương]], bộ lạc Thát Bạt của người [[Tiên Ti]] cư trú tại [[Đại (huyện)|huyện đại]] và [[Đại Đồng, Sơn Tây|Đại Đồng]]. Năm 220, [[Tào Ngụy]] thiết lập Tịnh châu trên địa phận Sơn Tây, chia làm 6 quận: Thái Nguyên, Thượng Đảng, Tây Hà, Nhạn Môn, Nhạc Bình, Tân Hưng.
[[Tập tin:Buddhas in collapsed cave Yungang.jpg|nhỏ|phải|[[Hang đá Vân Cương]] tại Đại Đồng, được tạc từ thời Bắc Ngụy]]
Đến thời [[Nhà Tấn|Tây Tấn]], Sơn Tây thuộc về Tịnh châu: Thượng Đảng quận<ref group="chú">trung tâm ở [[Trường Trị]], đông nam bộ Sơn Tây ngày nay</ref>, Thượng Cốc quận<ref group="chú">ở bắc bộ Thiểm Tây ngày nay</ref>. Sau khi [[nhà Tấn|triều Tấn]] suy yếu do [[loạn bát vương]], vào năm 304, thủ lĩnh Hung Nô là [[Lưu Uyên]] đã lập quốc, đặt quốc hiệu là [[Hán Triệu|Hán]], định đô tại Li Thạch<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị Lữu Lương, tỉnh Sơn Tây</ref>, năm 305, sau một nạn đói, ông dời đô đến Lê Đình<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị Trường Trị, tỉnh Sơn Tây</ref> Sau đó, khu vực Sơn Tây trước sau thuộc nước [[Hậu Triệu]] của tộc Yết, nước [[Nhiễm Ngụy]] của tộc Hán, nước [[Tiền Yên]] của người Tiên Ti, nước [[Tiền Tần]] của tộc [[người Đê|Đê]], nước [[Hậu Tần]] của tộc [[người Khương|Khương]]. Do chiến loại trong thời [[Ngũ Hồ thập lục quốc]], kinh tế Sơn Tây bị phá hoại nghiêm trọng.
 
[[Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế|Thác Bạt Khuê]] đã lập ra [[Bắc Ngụy]] vào năm 386, hai năm sau, để gần hơn về mặt địa lý với các lãnh thổ mới chinh phục được, ông đã thiên đô Bắc Ngụy đến Bình Thành<ref group="chú">nay thuộc địa cấp thị Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây</ref>. Bắc Ngụy sau đó thống nhất phương bắc Trung Quốc, mở ra thời kỳ [[Nam-Bắc triều (Trung Quốc)|Nam-Bắc triều]] trong lịch sử Trung Quốc. Sau đó, đến năm 534, Bắc Ngụy phân liệt thành [[Đông Ngụy]] và [[Tây Ngụy]]. Thực quyền Đông Ngụy nằm trong tay đại tướng [[Cao Hoan]]. Năm 543, nhà Đông Ngụy cho đắp thêm Trường thành tại Sơn Tây dài 150 dặm. Năm 550, con của Cao Hoan là [[Bắc Tề Văn Tuyên Đế|Cao Dương]] tiếm vị Đông Ngụy, lập ra [[Bắc Tề]], cha con Cao Hoan lấy Tấn Dương làm biệt đô. Thực quyền Tây Ngụy nằm trong tay [[Vũ Văn Thái]], đến năm 557 thì hậu duệ của Vũ Văn Thái là [[Vũ Văn Giác]] cũng tiếm vị Tây Ngụy, lập ra [[Bắc Chu]]. Thời Bắc Ngụy, [[Phật giáo]] lần đầu tiên có được sự hưng thịnh tại Trung Quốc, có tới ba vạn chùa viện, tăng ni lên đến 200 vạn, nhà sư [[Pháp Hiển]] bắt đầu chuyến đi huyền thoại tới [[Ấn Độ]] của ông từ Sơn Tây. Việc xây đục [[hang đá Vân Cương]] đã được hoàn thành trong khoảng thời gian 453-495.
Dòng 60:
=== Từ thời Tùy đến Kim ===
[[Tập tin:The Fugong Temple Wooden Pagoda.jpg|nhỏ|phải|Tháp Thích Ca của chùa Phật Cung ở huyện [[Ứng]], được [[Liêu Đạo Tông]] cho xây vào năm 1056]]
Thời [[nhà Tùy|Tùy]], Sơn Tây thuộc về Kí châu, có vị thế quan trọng về mặt kinh tế. Tháng 9 năm 617, [[Đường Cao Tổ|Lý Uyên]] từ nơi khởi binh tại [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]] đã vượt qua Hoàng Hà, đến tháng 11 thì công chiếm kinh đô [[Trường An]]. Năm 618, Lý Uyên lập nên [[nhà Đường|triều Đường]], bảy năm sau thì thống nhất toàn Trung Quốc. Triều đình nhà Đường có thái độ trọng thị với Sơn Tây, xem đây là đất "Long Hưng", định Thái Nguyên làm Bắc Đô, kinh tế của Sơn Tây cũng đứng vào hàng đầu tại Trung Quốc. Khi đó, toàn Đại Đường có 18 hồ muối, vùng Hà Đông có 5 hồ, một hồ sản xuất được cả vạn [[hộc]] muối, cung cấp cho kinh thành, được [[Liễu Tông Nguyên]] gọi là "quốc chi đại bảo". Thời Đường, xuất hiện nhiều danh nhân là người Sơn Tây, như [[Tiết Nhân Quý]], [[Võ Tắc Thiên]], [[Địch Nhân Kiệt]]. Trong thời Tùy Đường, Phật giáo hưng thịnh, [[Ngũ Đài sơn]] tại Hãn châu từ thời gian đó đã là một thánh địa của [[Phật giáo Trung Quốc]].
 
Đến thời [[Ngũ Đại Thập Quốc]], [[Hậu Đường Trang Tông|Lý Tồn Úc]], [[Hậu Tấn Cao Tổ|Thạch Kính Đường]] và [[Lưu Trí Viễn]] lần lượt thành lập các triều đại [[Hậu Đường]], [[Hậu Tấn]], [[Hậu Hán]], Thái Nguyên khi đó là một nơi trọng yếu. Em trai của Lưu Trí Viễn là [[Lưu Mân]] đã lập ra nước [[Bắc Hán]] tại bắc bộ và trung bộ Sơn Tây, nước này nằm kẹp giữa [[Hậu Chu]] về phía nam và [[nhà Liêu|Đại Liêu]] của người [[Khiết Đan]] ở phía bắc, được Liêu bảo hộ.
 
Sau khi [[nhà Tống|triều Tống]] được thành lập, nước Bắc Hán ỷ thế có người Khiết Đan chống lưng ở phương Bắc, tiến hành đối kháng với Tống. Năm 979, [[Tống Thái Tông]] Triệu Khuông Nghĩa thống lĩnh đại quân diệt nước Bắc Hán, phóng hỏa thiêu hủy thành Tấn Dương. Năm 982, triều Tống phái đại tướng [[Phan Mỹ]] (潘美) xây thành mới tại khu vực Thái Nguyên ngày nay. Đầu thời Bắc Tống, Sơn Tây thuộc Hà Đông lộ, lại khôi phục cảnh phồn vinh. Thái Nguyên sản xuất ra gương đồng và kéo đồng, được xuất đi tiêu thụ ở các địa phương khác. Sau thời [[Tống Chân Tông]], tại Sơn Tây người ta cũng bắt đầu sử dụng [[than đá]] làm nhiên liệu.
 
Sau [[sự kiện Tĩnh Khang|sự biến Tĩnh Khang]] năm 1125-1127, Sơn Tây chuyển sang thuộc quyền cai quản của [[nhà Kim|triều Kim]], quân Kim đã tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế phương Bắc Trung Quốc. Do Sơn Tây có [[Thái Hành Sơn]] làm chướng ngại tự nhiên, khói lửa chiến tranh gây cho Sơn Tây thiệt hại nhỏ hơn các địa phương khác. Kinh tế và văn hóa Sơn Tây phát triển trong thời Đại Định chi trị dưới sự cai trị của [[Kim Thế Tông]] và thời Minh Xương chi trị dưới sự cai trị của [[Kim Chương Tông]]. Bình Dương phủ (nay là Lâm Phần) trở thành trung tâm sản xuất giấy của Kim Quốc.
Dòng 72:
Khi [[đế quốc Mông Cổ]] xâm lược Hà đông bắc lộ và Hà đông nam lộ của Kim, họ đã tàn phá Sơn Tây, cả nghìn [[lý (đơn vị đo lường)|lý]] không có bóng người. Trong thời [[nhà Nguyên|Nguyên]], Sơn Tây thuộc Trung thư tỉnh, chịu sự quản lý trực tiếp của triều đình. Năm 1271, triều Nguyên thành lập Hà Đông Sơn Tây đạo tuyên úy ti tại khu vực phía đông Hoàng Hà, phía tây của Thái Hành Sơn, danh xưng Sơn Tây từ đó cũng bắt đầu được sử dụng.
 
Năm 1368, Minh Thái Tổ [[Minh Thái Tổ|Chu Nguyên Chương]] phái [[Từ Đạt]], [[Thường Ngộ Xuân]] suất lĩnh quân Minh tiến vào Sơn Tây, thiết lập Sơn Tây hành tỉnh. Chu Nguyên Chương sau này phong cho ba nhi tử làm phiên vương, trú trát tại Sơn Tây: [[Chu Vi]] là Tấn vương, trú tại Thái Nguyên; [[Chu Quế]] là Đại vương, trú tại Đại Đồng; [[Chu Mô]] là Thẩm vương, trú tại Lộ An (Trường Trị), xây dựng [[Vạn Lý Trường Thành|Minh Trường Thành]] để phòng bị [[Bắc Nguyên]] xâm lược. Đầu thời Minh, có một lượng lớn di dân từ Sơn Tây đến vùng [[bình nguyên Hoa Bắc]]- vùng mà khi ấy đang vắng bóng người. [[Đại hòe thụ (Hồng Động)|Đại hòe thụ]] ở [[Hồng Động]] trở thành một địa điểm tập hợp nổi tiếng, đến nay cư dân các tỉnh vẫn lưu truyền ngạn ngữ: "Nếu hỏi tổ tiên đến từ xứ nào? Đại hòe thụ ở Hồng Động, Thiểm Tây". Triều Minh sau đó đã thiết lập Sơn Tây thừa tuyên bố chính sứ ti, tiền thân của Sơn Tây ngày nay. Thời Minh, thương nhân Sơn Tây kiểm soát phần lớn việc buôn bán muối và dịch vụ ngân hàng trong cả nước.<ref name=eb4>{{chú thích web|last=Boxer|first=Baruch|title=Shanxi|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/538602/Shanxi/71120/History|publisher=Encyclopædia Britannica|accessdate=2013-01-27}}</ref>
 
Đến thời [[nhà Thanh]], triều đình đã đem một số khu vực ở bên ngoài Minh Trường Thành để nhập vào Sơn Tây. Sơn Tây tổng cộng có 9 phủ, 16 châu, 108 huyện. Thời gian này, ngành thương mại và tài chính của Sơn Tây hoạt động rất tích cực, xuất hiện văn danh "Sơn Tây phiếu hiệu" trên quy mô toàn quốc. Thương nhân Sơn Tây lập ra nhiều Sơn Tây hội quán hoặc Sơn Thiểm hội quán trên khắp Trung Quốc. Thời Thanh, Sơn Tây ít chịu ảnh hưởng của ngoại quốc, song một vài cơ sở sản xuất đã được thành lập tại Thái Nguyên vào năm 1898, và một tuyến đường sắt bằng vốn Pháp-Thanh đã được xây dựng từ năm 1904 đến 1907 để kết nối Thái Nguyên và [[Thạch Gia Trang]] ở tỉnh Hà Bắc ngày nay. Năm 1900, tổ chức [[bài ngoại]] Nghĩa Hòa đoàn đã đốt cháy một nhà thờ truyền giáo Anh tại Thái Nguyên, sau đó giết chết những người ngoại quốc và người Trung Quốc cải đạo theo Tây giáo. Điều này đã khiến [[phong trào Nghĩa Hòa Đoàn]] bùng nổ, cuối cùng lan đến [[Bắc Kinh]].<ref name=eb4/> Nghĩa Hòa Đoàn được cho là đã giết chết 100.000 thường dân khắp miền Bắc Trung Quốc,<ref name="hawaii1900">Rummel, Rudolph J.: China's Bloody Century : Genocide and Mass Murder Since 1900 (1991); Lethal Politics : Soviet Genocide and Mass Murder Since 1917 (1990); Democide : Nazi Genocide and Mass Murder (1992); Death By Government (1994), http://www2.hawaii.edu/~rummel/welcome.html.</ref> trong đó có 32.000 người Trung Quốc theo Tây giáo.<ref>Hammond Atlas of the 20th century (1996)</ref>
Dòng 79:
[[Tập tin:Yan Xishan.jpg|nhỏ|phải|[[Diêm Tích Sơn]], quân phiệt cát cứ tại Sơn Tây từ 1911-1949]]
[[Tập tin:1949 taiyuan battle finished.jpg|nhỏ|phải|Giải phóng quân tiến vào Thái Nguyên tháng 4 năm 1949]]
Trong [[Cách mạng Tân Hợi]], quân phiệt [[Diêm Tích Sơn]] tại Thiểm Tây đã chỉ huy lực lượng cách mạng địa phương đánh đuổi quân Thanh khỏi tỉnh, rồi tuyên bố độc lập khỏi triều Thanh. Diêm Tích Sơn sau đó được chính phủ [[Trung Hoa Dân Quốc]] bổ nhiệm chức Sơn Tây đô đốc, ông ủng hộ [[Viên Thế Khải]] xưng đế, vì thế được phong làm "nhất đẳng [[hầu tước|hầu]]". Năm 1917, không lâu sau khi Viên Thế Khải chết, Diêm Tích Sơn củng cố quyền thống trị Sơn Tây. Cho tới năm 1911, Sơn Tây là một trong những tỉnh nghèo nhất Trung Hoa. Diêm Tích Sơn tin rằng, nếu không hiện đại hóa kinh tế cũng như cơ sở hạ tầng, Sơn Tây sẽ không chống nổi các quân phiệt từ các nơi khác.
 
Ngày 18 tháng 12 năm 1931, một nhóm sinh viên tại Thái Nguyên tập hợp phản đối chính sách nhân nhượng [[Nhật Bản]] của chính phủ Nam Kinh. Cuộc biểu tình trở nên bạo lực đến nỗi cảnh sát [[Trung Quốc Quốc Dân Đảng|Quốc dân đảng]] đã nổ súng vào đám đông. Sự kiện "Thảm sát 18/12" gây ra một làn sóng giận dữ, tạo điều kiện cho các thuộc hạ của Diêm Tích Sơn thừa cơ trục xuất các viên chức Quốc dân đảng khỏi tỉnh, viện cớ là để đảm bảo an ninh. Sau vụ này, tổ chức Quốc dân đảng tại Sơn Tây chỉ còn trên danh nghĩa, trung thành với Diêm Tích Sơn còn hơn cả với [[Tưởng Giới Thạch]].<ref>{{chú thích sách|author=Gillin, Donald G.|title=Warlord: Yen Hsi-shan in Shansi Province 1911-1949|year=1967|publisher=Princeton University Press|location=Princeton, New Jersey|pages=122-123}}</ref> Năm 1934, Tưởng Giới Thạch đi máy bay đến Thái Nguyên, tại đó ông ta ca ngợi chính quyền của Diêm Tích Sơn có công giúp đỡ, ủng hộ Chính phủ Nam Kinh, trên thực tế là thừa nhận quyền thống trị Sơn Tây của Diêm Tích Sơn.
Dòng 103:
Sơn Tây có trên 1.000 sông lớn nhỏ, thuộc hai hệ thống sông lớn là [[Hoàng Hà]] và [[Hải Hà (sông)|Hải Hà]]. Trong đó, con sông lớn thứ hai tại Trung Quốc- Hoàng Hà chảy từ bắc xuống nam dọc theo một hẻm núi ở ranh giới phía tây giữa Sơn Tây và Thiểm Tây, ở [[Phong Lăng Độ]] (風陵渡), Hoàng Hà chuyển hướng tây-đông và tạo thành một đoạn ranh giới giữa Sơn Tây và Hà Nam, tổng chiều dài Hoàng Hà tại Sơn Tây là 968&nbsp;km. Ngoài Hoàng Hà ra, Sơn Tây có 5 sông có diện tích lưu vực trên 10.000&nbsp;km², có 48 sông có diện tích lưu vực từ 1.000&nbsp;km² đến 10.000&nbsp;km², có 397 sông có diện tích lưu vực từ 100&nbsp;km² đến 1.000&nbsp;km².<ref name=stg/> [[Sông Phần|Phần Hà]] là sông lớn nhất trong nội bộ Sơn Tây, chảy từ đông bắc xuống tây nam, chiều dài dòng chính là 694&nbsp;km. Các [[phân lưu|chi lưu]] lớn của Hoàng Hà ở Sơn Tây bao gồm: Phần Hà, [[Thấm Hà]], [[Đan Hà]], [[sông Tốc Thủy|Tốc Thủy Hà]], [[sông Tam Xuyên|Tam Xuyên Hà]]. Các chi lưu lớn của hệ thống Hải Hà trên địa bàn Sơn Tây là: [[sông Tang Can|Tang Can Hà]], [[Sông Hô Đà|Hô Đà Hà]], [[Chương Hà (Sơn Tây)|Trạc Chương Hà]], [[Chương Hà (Sơn Tây)|Thanh Chương Hà]]. Diện tích lưu vực Hoàng Hà tại Sơn Tây là 97.138&nbsp;km², chiếm 62% diện tích toàn tỉnh; diện tích lưu vực Hải Hà tại Sơn Tây là 59.133&nbsp;km², chiếm 38% diện tích toàn tỉnh.
 
Ở các dãy núi, thường thấy một vài loại đất nâu nhạt hoặc đất rừng nâu, các [[đồng cỏ|thảo nguyên]] xuất hiện trên cao độ lớn hơn. Đất [[phù sa]] xuất hiện ở các khu vực trung bộ và nam bộ của Sơn Tây và chủ yếu tạo thành từ đất nâu đá vôi do Phần Hà bồi đắp. Tỉnh Sơn Tây cũng có trầm tích hoàng thổ và đá vôi. Nguồn tài nguyên hữu cơ tự nhiên của Sơn Tây không phải là nhiều, và có độ mặn quá mức.<ref name=eb1>{{chú thích web|author=Baruch Boxer|title=Shanxi|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/538602/Shanxi|publisher=Encyclopædia Britannica,|accessdate=2013-01-28}}</ref>
 
Sơn Tây nằm ở vùng có vĩ độ trung bình ở nội lục, thuộc vùng [[khí hậu ôn đới]] lục địa gió mùa, bán khô hạn. Do ảnh hưởng từ các nhân tố [[bức xạ Mặt Trời]], hoàn lưu [[gió mùa]] và vị trí địa lý, khí hậu Sơn Tây có đủ bốn mùa phân biệt, mưa nhiệt cùng lúc, ánh nắng đầy đủ, có sự khác biệt khí hậu đáng kể giữa nam và bắc, có sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa [[mùa đông]] và [[mùa hạ|mùa hè]], ngoài ra giữa [[ngày]] và [[đêm]] cũng có sự chênh lệch [[nhiệt độ]] lớn. Nhiệt độ bình quân năm của các địa phương tại Sơn Tây biến đổi từ 4,2-14,2°C,<ref name=stg/> về tổng thể thì tăng dần từ bắc xuống nam, thấp dần từ bồn địa lên vùng núi cao. Nhiệt độ trung bình tại Thái Nguyên vào tháng giêng là −7°C và tăng lên 24 °C trong tháng 7; các số liệu tương ứng tại Đại Đồng là −16°C và 22°C.<ref name=eb1/> Lượng [[giáng thủy]] trung bình năm của các địa phương tại Sơn Tây dao động từ 358-621 [[mM|mm]], thấp dần từ tây bắc đến đông nam, phân bố không đều theo mùa, tương đối tập trung vào mùa hè (từ tháng 6-8), chiếm 60% tổng lượng giáng thủy cả năm. Trong mùa đông, Sơn Tây thường xảy ra [[hạn hán]] do các cơn gió tây bắc khô thổi đến từ [[cao nguyên Mông Cổ]]. Trong mùa hè, gió mùa đông nam mang theo lượng [[ẩm]] thì lại bị Thái Hành Sơn chặn. [[Mưa đá]] là một mối nguy hiểm tự nhiên thường xuất hiện tại Sơn Tây, cùng với đó là nạn [[lụt|lũ lụt]] mà chủ yếu đe dọa khu vực dọc theo Phần Hà.
Dòng 125:
Tỉnh Sơn Tây được chia ra 11 [[phân cấp hành chính Trung Quốc#cấp địa khu|đơn vị cấp địa khu]], tất cả đều là [[địa cấp thị]]:
 
{| class="wikitable" style="font-size:90%;" align=center
|-
! Bản đồ
Dòng 229:
|}
 
11 [[phân cấp hành chính Trung Quốc#cấp địa khu|đơn vị cấp địa khu]] này được chia ra 119 [[Phân cấp hành chính Trung Quốc#cấp huyện|các đơn vị cấp huyện]] (23 [[khu (Trung Quốc)|quận]], 11 [[huyện cấp thị|thành phố cấp huyện]], và 85 [[huyện (Trung Quốc)|huyện]]). Các đơn vị này lại được chia ra làm 1388 [[Phân cấp hành chính Trung Quốc#Cấp hương|các đơn vị cấp hương]] (561 [[trấn (Trung Quốc)|trấn]], 634 [[hương của Trung Quốc|hương]], và 193 [[phó quận]]).
 
== Kinh tế ==
[[Tập tin:Shuozhou coal power plant.JPG|nhỏ|phải|Nhà máy nhiệt điện dùng than đá tại Sóc Châu]]
Do xảy ra hiện tượng [[xói mòn]] trên phạm vi rộng, chỉ một phần ba diện tích Sơn Tây là đất canh tác. Sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã có những nỗ lực nhằm bảo toàn đất và nước trên quy mô rộng lớn, tạo ra loại ruộng bậc thang, trồng cây gây rừng, đào kênh mương thủy lợi, đắp bờ các mảnh đất canh tác, khử mặn, và cải tạo đất ven sông. Ở cực bắc của tỉnh, mùa sinh trưởng của cây trồng rất ngắn chỉ với 120 ngày, mùa đông lạnh và kéo dài khiến cho chỉ canh tác được một vụ kê có bông, lùa mì xuân, yến mạch trần, khoai tây và vừng mỗi năm. Ở phần còn lại của tỉnh, ngoại trừ các khu vực đồi núi, mùa sinh trưởng kéo dài hơn (210 ngày), cho phép canh tác ba vụ hai năm hoặc hai vụ một năm. Một số [[thuốc lá (cây)|thuốc lá]] và [[lạc]] cũng như [[cây ăn quả]] được trồng tại các vùng bồn địa trung bộ và đồng bằng ven Hoàng Hà.<ref name=eb2>{{chú thích web|last=Boxer|first=Baruch|title=Shanxi|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/538602/Shanxi/71112/People|publisher=Encyclopædia Britannica|accessdate=2013-01-29}}</ref> Năm 2011, đầu tư cho "tam nông" tại Sơn Tây đạt 65 tỷ NDT, tổng sản lượng lương thực đạt 11.930.000 tấn.<ref name=stg/>
 
Trên địa bàn Sơn Tây đã phát hiện được hơn 120 loại [[khoáng sản]], trong đó đã xác minh được trữ lượng của 70 loại. Vào năm 2011, trữ lượng [[than đá]] của Sơn Tây đạt 267,379 tỷ tấn, chiếm 20% tổng trữ lượng than đá của Trung Quốc. Các chủng loại khoáng sản có trữ lượng đứng vào hàng đầu toàn quốc của Sơn Tây là: khí vỉa than, [[bô xít]], [[perlite]], [[gali]], [[zeolit]], [[rutile]], muối magiê, [[mirabilite]], [[feldspat]] [[kali]], [[ilmenite]], [[đá vôi]], [[feldspat]], [[thạch cao]], [[coban]], [[đồng]] và các loại khác.<ref name=stg/>
 
Theo hạch toán sơ bộ, tổng [[Tổng sản phẩm nội địa|GDP]] của Sơn Tây vào năm 2011 là 1.110,02 tỷ NDT, tăng trưởng 13% so với năm trước. Trong đó, [[khu vực một của nền kinh tế|khu vực một]] đạt giá trị 64,14 tỷ NDT, [[khu vực hai của nền kinh tế|khu vực hai]] đạt giá trị 657,78 tỷ NDT, [[dịch vụ|khu vực ba]] đạt giá trị 388,09 tỉ NDT. Trong năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Sơn Tây là 14,76 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 9,33 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 5,43 tỷ USD.<ref name=stg/>
 
Ngành công nghiệp của Sơn Tây dựa trên cơ sở nguồn tài nguyên than đá phong phú, tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp nặng tại Thái Nguyên-Tấn Trung. Ngành gang thép sản xuất ra thép thỏi, gang thỏi, và các sản phẩm thép hoàn chỉnh. Ngoài ra Sơn Tây còn có các ngành cơ cấu hạng nặng, hóa chất công nghiệp, phân bón hóa học, như xi măng, giấy, dệt may, xay bột, và rượu. Các trung tâm khai mỏ và gang thép khác bao gồm Dương Tuyền, Trường Trị, Đại Đồng và Lâm Phần. Từ thập niên 1980, Sơn Tây cũng phát triển mạnh mẽ các ngành điện tử, dệt may, chế biến thực phẩm, nhựa gia dụng. Các sản phẩm đặc sản của địa phương phải kể đến như [[Phần tửu]] (汾酒), một loại rượu mùi làm từ [[chi Lúa miến|lúa miến]] của thôn Hạnh Hoa.<ref name=eb2/>
Dòng 282:
* [[Đại học Sư phạm Thái Nguyên (Trung Quốc)|Đại học Sư phạm Thái Nguyên]] (太原师范学院)
* [[Học viên Trung y Sơn Tây]] (山西中医学院)
* [[Đại học Sư phạm Sơn Tây]] (山西师范大学)
* [[Đại học Nông nghiệp Sơn Tây]] (山西农业大学)
* [[Học viện Y Trường Trị]] (长治医学院)