Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tripoli”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: → (89), → (49) using AWB |
|||
Dòng 1:
{{Coord|32|54|8|N|13|11|9|E|region:LY_type:city(1600000)|display=title}}
{{Thông tin khu dân cư
|official_name
|native_name
|motto
|image_skyline
|imagesize
|image_caption
|image_flag
|image_seal
|pushpin_map
|map_size
|map_caption
|coordinates_region
|subdivision_type
|subdivision_name
|subdivision_type1
|subdivision_name1
|leader_title
|leader_name
|area_total_km2
|population_as_of
|population_total
|population_density_km2 = 4205
|timezone
|utc_offset
|timezone_DST
|utc_offset_DST
|elevation_m
|elevation_ft
|latd=32|latm=54|lats=8 |latNS=N
|longd=13|longm=11|longs=9 |longEW=E
Dòng 62:
Cuộc chiến với hải tặc đã diễn ra từ trước tại căn cứ của chúng trên đảo Rhodes, lý do mà các Hiệp sĩ được cử đến và gánh vác nhiệm vụ quản lý thành phố là để ngăn cản sự tái xuất hiện của các hải tặc Barbary, những kẻ đã hoạt động từ trước thời kỳ chiếm đóng của Tây Ban Nha. Sự gián đoạn hoạt động của những tên cướp biển trên các tuyến đường vận chuyển của Kitô giáo trong Địa Trung Hải được cho là kết quả của việc Tây Ban Nha chinh phục thành phố.
Các hiệp sĩ tiếp tục giữ thành phố với một số rắc rối cho đến năm 1551, khi họ buộc phải đầu hàng Ottoman, dẫn đầu bởi một người Thổ Hồi giáo tên là [[Turgut Reis]].<ref>{{chú thích sách |author= Reynolds, Clark G. |title= Command of the sea: the history and strategy of maritime empires |publisher= Morrow |year= 1974 |pages= 120–121 |isbn= 0688002676, 9780688002671 |quote= Ottomans extended their western maritime frontier across North Africa under the naval command of another Greek Moslem, Torghoud (or Dragut), who succeeded Barbarossa upon the latter's death in 1546.}}</ref>
Sau khi bị người Thổ Ottoman xâm chiếm, Tripoli một lần nữa đã trở thành một căn cứ của hải tặc Barbary. Một trong nhiều nỗ lực của phương Tây nhằm chống lại chúng là cuộc tấn công của Hải quân Hoàng gia dưới sự chỉ huy của John Narborough năm 1675, trong đó có một nhân chứng đã sống sót.<ref>The Diary of [[Henry Teonge]] Chaplain on Board HM’s Ships Assistance, Bristol and Royal Oak 1675–1679. The Broadway Travellers. Edited by Sir E. Denison Ross and Eileen Power. London: Routledge, [1927] 2005. ISBN 978-0-415-34477-7</ref> Việc Ottoman cai trị trong thời gian này (1551-1711) thường bị cản trở bởi các đội quân địa phương Janissary. Có chức năng là cơ quan thực thi quyền lực chính quyền tại địa phương, đại tá Janissaries và bạn bè của ông thường thường được coi là những người cai trị Tripoli trên thực tế.
Dòng 69:
===Thời kỳ thuộc địa của Ý===
Ý từ lâu đã tuyên bố rằng Tripoli nằm dưới vùng ảnh hướng của họ và vì vậy Ý có quyền giữ gìn trật tự trong phạm vi đất nước.<ref>{{chú thích tạp chí
Theo Hiệp định Lausanne, chủ quyền của Ý được Ottoman công nhận, mặc dù vậy [[Khalip|Caliph]] được phép thực hiện các thẩm quyền về mặt tôn giáo. Ý đã chính thức công nhận quyền tự trị sau chiến tranh, nhưng sau đó dần xâm chiếm khu vực. Trong giai đoạn đầu, toàn Libya được quản lý như một thuộc địa, Tripoli và các tỉnh xung quanh sau đó trở thành một thuộc địa riêng biệt từ ngày 26 tháng 6, 1927 đến ngày 3 tháng 12, 1934, sau đó tất cả các thuộc địa của Ý tại Bắc Phi tái thống nhất thành một thuộc địa. Năm 1938 Tripoli có tổng số dân là 108.240 người, trong đó có 39.096 người Ý.<ref>''The Statesman’s Yearbook 1948'', Palgrave Macmillan, p.1040</ref>
Dòng 155:
Tập tin:Tripoli Airport.jpg|Sân bay quốc tế Tripoli
</gallery></center>
==
{{tham khảo}}
==Tham khảo==
{{Thủ đô châu Phi}}
|