Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Hữu Thúy”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Trở thành Thiếu úy Nha An ninh Quân đội: tên bài chính, replaced: Đỗ Mậu (Nam Việt Nam) → Đỗ Mậu using AWB |
n clean up, replaced: → using AWB |
||
Dòng 6:
Ông sinh năm 1926 tại [[Hoằng Hóa]], [[Thanh Hóa]], trong một gia đình nhà Nho khá giả xuất thân khoa bảng. Bố mất sớm, mẹ ông nuôi ông và 4 chị em gái. Thuở nhỏ, ông theo học tại trường trung học [[Alexandre de Rhodes]] của Nhà chung Thanh Hóa và tốt nghiệp Tú tài. Tại đây, ông làm quen với một [[linh mục]] [[dòng Anh Em Thuyết Giáo|dòng Đa Minh]], cha Thiên Phong Bửu Dưỡng, vốn là một giáo sư triết học nổi tiếng tại Hà Nội.
Năm 1945, vốn có tinh thần yêu nước, ông tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền và gia nhập Đoàn thanh niên Cứu quốc, một tổ chức của Mặt trận [[Việt Minh]]. Năm 1947, ông công tác tại Ty Công an Thanh Hóa. Do có trình độ học vấn khá, sau khi tham gia kháng chiến một thời gian, ông được cấp trên điều động sang công tác tình báo, được huấn luyện phục vụ cho hoạt động sau này. Năm 1949, ông được bí mật kết nạp Đảng. Tháng 6 năm 1950, ông được lệnh trở về Hà Nội hoạt động với bí danh '''A.25'''.
Ông theo học bậc Đại học với giáo sư [[Nguyễn Phúc Bửu Dưỡng|Bửu Dưỡng]] vừa đi dạy kiếm sống tại trường trung học Nam Đồng của Dòng Chúa Cứu Thế ở Ô Chợ Dừa Hà Nội. Cũng trong thời gian này, từ năm 1951, ông tham gia hoạt động xã hội trong nhóm trí thức mang tên "Chi hội hòa bình" tại Hà Nội và làm quen với [[Huỳnh Văn Trọng]], một cơ sở của ông về sau này, qua sự giới thiệu của linh mục Bửu Dưỡng<ref>Có thể trong thời gian này ông cũng có tiếp xúc với một sinh viên trường Y là [[Trần Kim Tuyến]], trùm mật vụ sau này, vốn cũng là một đồng hương Thanh Hóa và sinh hoạt trong "Chi hội hòa bình".</ref>. Ông cũng bắt đầu viết báo, cộng tác với tuần báo "Đạo binh đức Mẹ", do linh mục Nguyễn Ngà là chủ bút.
Dòng 20:
== Bị bắt và giam giữ tại Huế ==
Tuy nhiên, thời gian của ông hoạt động không lâu. Theo tiểu thuyết "Điện viên giữa sa mạc lửa" do chính ông viết với bút danh Nhị Hồ, thì từ năm 1955, một hồi chánh viên tên là Nguyễn Gia đã tố giác ông là đảng viên Cộng sản. Tuy nhiên, chi tiết này đã không được chú ý đến.
Theo một số tài liệu, Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung, do ông Dương Văn Hiếu là Trưởng đoàn, phát hiện kể từ năm 1958, mỗi khi phát hiện hay tình nghi một "điệp viên Cộng sản" hoạt động trong quân đội, thường thông báo cho Nha An ninh Quân đội điều tra để loại trừ, thì chỉ ít lâu sau là những người này đã biến mất. Do đó đã nghi ngờ sự rò rỉ từ Thiếu úy An ninh Quân đội Lê Hữu Thúy và đã bí mật bắt giữ ông vào cuối năm 1959 mà không thông báo cho Nha An ninh Quân đội biết.
Từ năm 1960, ông bị chuyển ra Huế và giam giữ chờ xác minh tại trại giam Tòa Khâm. Điều bất ngờ là tại đây cũng tập trung nhiều cơ sở cũ của ông như Nguyễn Xuân Hòe, Vũ Hữu Ruật, thậm chí có cả cấp trên của ông là ông [[Trần Quốc Hương|Mười Hương]]. Việc giam giữ này kéo dài đến năm 1963, khi cuộc đảo chính đã lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Ông được thả tự do, và theo tường thuật của Minh Chuyên (Tiền Phong Online), thì chính vợ ông đã đốt hồ sơ mật tại trại Tòa Khâm để phi tang chứng cứ các điệp viên tại đây<ref name=tienphong>[http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=159024&ChannelID=13 Những người nằm trong Phủ Tổng thống Sài Gòn - Vinh quang và cay đắng]</ref>.
== Vụ án Huỳnh Văn Trọng và 42 điệp báo ==
Do việc ông bị bắt bí mật, ông đã lợi dụng điều này để làm nảy sinh nghi ngờ ông bị bắt do mâu thuẫn bè phái. Lợi dụng mối quan hệ thuộc cấp với Đỗ Mậu (lúc này đã là [[Thiếu tướng]]), cộng với việc thủ tiêu tài liệu của vợ ông, giúp phần nào ông giữ được thế chính trị để hoạt động trở lại. Ông tiếp tục với nghề ký giả, viết bài cho báo Trinh Thám, do Hoàng Hồ làm chủ nhiệm.
Năm 1966, ông nhận nhiệm vụ phối hợp với [[Vũ Ngọc Nhạ]] để xây dựng lá bài chính trị trong chính trường Sài Gòn. Và lá bài chính trị đó chính là Huỳnh Văn Trọng, cố vấn ngoại giao của Tổng thống Việt nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu. Huỳnh Văn Trọng từng là một bộ trưởng dưới thời Bảo Đại, bị bỏ rơi hoàn toàn dưới thời Đệ nhất Cộng hòa của Ngô Đình Diệm nên tỏ ra bất mãn và chỉ làm công việc dạy học cho các nhân viên dân sự Mỹ tại Sài gòn.
Dòng 47:
==Trở về với cuộc đời bình lặng==
Tháng 7 năm 1973, ông được phía [[Việt Nam Cộng hòa]] trao trả theo quy chế tù binh. Sau khi kiểm tra thông tin, ông được công nhận quân hàm Thượng úy Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, giống như hầu hết các cán bộ tình báo khác, thân phận thực của ông vẫn chưa được xác nhận công khai.
Mãi đến năm 1990, ông mới được phục hồi đảng
Hoạt động tình báo của ông được khắc họa trong cuốn tiểu thuyết "Điệp viên giữa biển lửa" do Nhị Hồ viết.
|