Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Huỳnh Tịnh Của”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n ct |
|||
Dòng 1:
'''Huỳnh Tịnh Của''' hay '''Huình Tịnh Của''' (1834-1907) hay
==Tiểu sử==
Thời trẻ, Huỳnh Tịnh Của đi du học
Tiếp nhận ảnh huởng văn hóa phương Tây, Huỳnh Tịnh Của cùng chia sẻ một quan niệm với Trương Vĩnh Ký, theo đó, xã hội [[Việt Nam]] có khả năng và cần vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm của học thuật phương Tây về các vấn đề khoa học, kỹ nghệ, kinh tế và chính trị, để canh tân, nhưng vẫn giữ gìn, đào sâu và phát triển văn hóa phương Đông cổ truyền để duy trì bản chất và bảo tồn độc lập.
Ông là một trong số ít nguời "Tây học" đầu tiên
Ông mất năm Đinh Mùi (1907), thọ 73 tuổi.
==Đại Nam quốc âm tự vị==
{{chính|Đại Nam quốc âm tự vị}}
Huỳnh Tịnh Của sáng tác khá nhiều và đa dạng, nhưng trong số những tác phẩm của ông, nổi bật nhất là pho ''Đại Nam quốc âm tự vị''. Qua tác phẩm đồ sộ đó, Huỳnh Tịnh Của đóng góp rất nhiều cho việc xây dựng quốc văn mới. ''Ðại Nam quốc âm tự vị'' là quyển tự vị [[tiếng Việt]] đầu tiên của [[Việt Nam]], do người Việt Nam biên soạn. Nghiên cứu của Huỳnh Tịnh Của được đánh giá là mang tính đột phá táo bạo khi phải đến hơn ba mươi năm sau mới lại có một hội văn học ở [[Bắc Kỳ]] là [[
Khi soạn ''Ðại Nam quốc âm tự vị'', Huỳnh Tịnh Của chủ trương làm một cuốn tự vị ngắn gọn, chỉ liệt kê các tiếng và định nghĩa một cách vắn tắt, chứ không chú giải, dẫn điển, dẫn tích. Ông viết: ''“Có kẻ hỏi tự điển, tự vị khác nhau thế nào? Sao sách ta làm kêu là tự vị mà không gọi là tự điển?.... Tự điển, tự vị khác nhau có một sự rộng hẹp. Tự điển phải có chú giải, mỗi chữ, mỗi tiếng đều phải dẫn điển, dẫn tích, nguyên là chữ sách nào, nguyên là lời ai nói, cả thảy đều phải có kinh truyện làm thầy; chí như tự vị cũng là sách hội biên các thứ chữ, cùng các tiếng nói, song trong ấy thích chữ một, nghĩa một, mà không dẫn điển tích gì”.''<ref> Đại Nam quấc âm tự vị, Imprimerie Rey, Curol & C<sup>ie</sup>, Sài Gòn, 1895 </ref> Còn về nội dung của cuốn tự vị, thì ngay từ trang bìa, Huỳnh Tịnh Của đã ghi rõ: ''“''Ðại Nam quốc âm tự vị'' tham dụng chữ nho có giải nghĩa, có dẫn chứng, muợn 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ”.''<ref> Đại Nam quấc âm tự vị, Imprimerie Rey, Curol & C<sup>ie</sup>, Sài Gòn, 1895 </ref>
Trong quá trình soạn sách, Huỳnh Tịnh Của đã đuợc một
Công sức của Huỳnh Tịnh Của đã được đền đáp xứng đáng khi bộ sách trở thành "sách gối đầu giường" với nhiều thế hệ các nhà ngôn ngữ Việt Nam. Bộ tự vị có những ưu điểm rất nổi bật:
Trước hết, ngữ vựng trong đó rất phong phú. Ví dụ như chữ "ăn" có tới 125 chữ ghép khác nhau, cho thấy công lao tìm tòi công phu của người biên soạn. Nó còn bao gồm chẳng những các từ ngữ văn chương, chung cho cả ba miền đất nuớc, rút ra từ các áng văn chương bác học và bình dân, mà cả ngôn ngữ bình dân, đặc biệt là những tiếng có màu sắc địa phương đuợc sử dụng nhiều ở [[Nam Kỳ]] và [[Trung Kỳ]] thời bấy giờ, góp phần làm sáng tỏ rất nhiều khúc mắc ngôn ngữ học hiện đại sau này.
Thứ đến, cách giảng giải của ''Đại Nam quốc âm tự vị'' rất rõ ràng. Bộ sách không chỉ vắn tắt giảng nghĩa, mà đôi khi còn trình bày nguồn gốc của chữ để cho nghĩa đuợc rõ hơn, bằng cách trích thêm những câu tục ngữ, ca dao, những câu thơ [[truyện Kiều|Kiều]], [[Lục Vân Tiên]]...
Dòng 33:
Huỳnh Tịnh Của sáng tác cả thảy khoảng 17 tác phẩm. Có thể xếp chúng thành hai loại: loại biên khảo và loại phiên âm.
Loại biên khảo có nội dung phổ biến kiến thức hoặc sưu tầm phóng tác các tác phẩm đời
#''Chuyện giải buồn'', 2 tập, 112 truyện (in năm 1880 và 1885);
#''Maximes et proverbes'' (1882);
Dòng 39:
#''Bác học sơ giai'' (1887);
#''Quan chế'' (1888);
#''[[Ðại Nam
#''Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn'' (1897);
#''Câu hát góp'' (1904);
Dòng 67:
[[Thể loại:Tổng biên tập Việt Nam]]
[[Thể loại:Nhà báo Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Bà Rịa
[[Thể loại:Nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam]]
[[Thể loại:Nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam]]
|