Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Huỳnh Tịnh Của”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n ct
Dòng 1:
'''Huỳnh Tịnh Của''' hay '''Huình Tịnh Của''' (1834-1907) hay Huỳnhcòn Tịnhgọi là '''Paulus Của''', hiệu '''Tịnh Trai''', quê ở làng [[Phước Thọ]], huyện [[Đất Đỏ]], tỉnh [[Bà Rịa]] (nay là huyện Đất Đỏ, tỉnh [[Bà Rịa - Vũng Tàu]]), là một nhà văn hóa học và ngôn ngữ học có đóng góp xuất sắc trong việc nghiên cứu, phát triển và truyền bá [[chữ quốc ngữ]] trong giai đoạn đầu, đặc biệt là ở [[Nam bộ]].
 
==Tiểu sử==
Thời trẻ, Huỳnh Tịnh Của đi du học truờngtại một trường công giáo ở [[Penang]], [[Malaysia]]. Sớm tiếp thu tư duy nghiên cứu khoa học phương Tây, ông tinh thông cả [[tiếng Hán]] và [[tiếng Pháp]]. Năm 1881, Huỳnh Tịnh Của đuợcđược bổ nhiệm Ðốc phủ sứ, làm Giám đốc ty phiên dịch văn án ở Soái phủ [[Sài Gòn]]. Sau này ông thay [[Trương Vĩnh Ký]] làm chủ bút tờ công báo quốc ngữ [[Gia Ðịnh báo]] trong một thời gian ngắn. Ngoài công việc của một viên chức chính phủ, ông còn lưu tâm giành nhiều thời gian nghiên cứu [[chữ quốc ngữ]]. Mặc dù tinh thông cả Pháp văn lẫn Hán văn, tuyệt đại đa số các tác phẩm của ông được viết bằng chữ quốc ngữ, vào thời bấy giờ vẫn chưa được coi trọng và bị đánh giá thấp hơn so với chữ Hán hay chữ Pháp.
 
Tiếp nhận ảnh huởng văn hóa phương Tây, Huỳnh Tịnh Của cùng chia sẻ một quan niệm với Trương Vĩnh Ký, theo đó, xã hội [[Việt Nam]] có khả năng và cần vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm của học thuật phương Tây về các vấn đề khoa học, kỹ nghệ, kinh tế và chính trị, để canh tân, nhưng vẫn giữ gìn, đào sâu và phát triển văn hóa phương Đông cổ truyền để duy trì bản chất và bảo tồn độc lập.
 
Ông là một trong số ít nguời "Tây học" đầu tiên truớctrước tác bằng chữ quốc ngữ để truyền bá học thuật phương Tây, nhưng vẫn không quên phổ biến văn hóa phương Đông cổ truyền. Sau và cùng với Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của là nguời có công xây đắp rất nhiều cho nền văn chương quốc ngữ trong những buớc đầu, nhất là ở [[Nam Kỳ]].
 
Ông mất năm Đinh Mùi (1907), thọ 73 tuổi.
 
==Đại Nam quốc âm tự vị==
{{chính|Đại Nam quốc âm tự vị}}
Huỳnh Tịnh Của sáng tác khá nhiều và đa dạng, nhưng trong số những tác phẩm của ông, nổi bật nhất là pho ''Đại Nam quốc âm tự vị''. Qua tác phẩm đồ sộ đó, Huỳnh Tịnh Của đóng góp rất nhiều cho việc xây dựng quốc văn mới. ''Ðại Nam quốc âm tự vị'' là quyển tự vị [[tiếng Việt]] đầu tiên của [[Việt Nam]], do người Việt Nam biên soạn. Nghiên cứu của Huỳnh Tịnh Của được đánh giá là mang tính đột phá táo bạo khi phải đến hơn ba mươi năm sau mới lại có một hội văn học ở [[Bắc Kỳ]] là [[hộiHội Khaikhai Trítrí tiếnTiến đứcĐức]] nghĩ đến tiếp tục công việc đó và cho tới tận bây giờ, ''Đại Nam quốc âm tự vị'' vẫn được coi là pho sách kinh điển của những nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam.
 
Khi soạn ''Ðại Nam quốc âm tự vị'', Huỳnh Tịnh Của chủ trương làm một cuốn tự vị ngắn gọn, chỉ liệt kê các tiếng và định nghĩa một cách vắn tắt, chứ không chú giải, dẫn điển, dẫn tích. Ông viết: ''“Có kẻ hỏi tự điển, tự vị khác nhau thế nào? Sao sách ta làm kêu là tự vị mà không gọi là tự điển?.... Tự điển, tự vị khác nhau có một sự rộng hẹp. Tự điển phải có chú giải, mỗi chữ, mỗi tiếng đều phải dẫn điển, dẫn tích, nguyên là chữ sách nào, nguyên là lời ai nói, cả thảy đều phải có kinh truyện làm thầy; chí như tự vị cũng là sách hội biên các thứ chữ, cùng các tiếng nói, song trong ấy thích chữ một, nghĩa một, mà không dẫn điển tích gì”.''<ref> Đại Nam quấc âm tự vị, Imprimerie Rey, Curol & C<sup>ie</sup>, Sài Gòn, 1895 </ref> Còn về nội dung của cuốn tự vị, thì ngay từ trang bìa, Huỳnh Tịnh Của đã ghi rõ: ''“''Ðại Nam quốc âm tự vị'' tham dụng chữ nho có giải nghĩa, có dẫn chứng, muợn 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ”.''<ref> Đại Nam quấc âm tự vị, Imprimerie Rey, Curol & C<sup>ie</sup>, Sài Gòn, 1895 </ref>
 
Trong quá trình soạn sách, Huỳnh Tịnh Của đã đuợc một nguờingười Pháp tên là A. Landes giúp đỡ rất nhiều về ý kiến cũng như phương pháp. Landes là một nhà Ðông phương học, có học chữ nho và từng làm Giám đốc TruờngTrường Thông ngôn ở [[Sài Gòn]] từ năm 1885. Cũng chính Landes là nguờingười, vào năm 1895, khi đang làm Ðổng lý văn phòng cho Toàn quyền De Lanessan, đã khuyên Huỳnh Tịnh Của xin Thống đốc Nam Kỳ xuất quỹ để xuất bản bộ tự vị này. Tất nhiên, công việc chính vẫn do Huỳnh Tịnh Của trì chí thực hiện, như lời ông viết: ''“nhân khi rỗi rảnh, ta cứ việc làm theo tiếng ta, chữ ta, viết đi chép lại, ngày đêm khó nhọc, hơn bốn năm trời mới thành công việc”''.<ref> Đại Nam quấc âm tự vị, Imprimerie Rey, Curol & C<sup>ie</sup>, Sài Gòn, 1895 </ref>
 
Công sức của Huỳnh Tịnh Của đã được đền đáp xứng đáng khi bộ sách trở thành "sách gối đầu giường" với nhiều thế hệ các nhà ngôn ngữ Việt Nam. Bộ tự vị có những ưu điểm rất nổi bật:
 
Trước hết, ngữ vựng trong đó rất phong phú. Ví dụ như chữ "ăn" có tới 125 chữ ghép khác nhau, cho thấy công lao tìm tòi công phu của người biên soạn. Nó còn bao gồm chẳng những các từ ngữ văn chương, chung cho cả ba miền đất nuớc, rút ra từ các áng văn chương bác học và bình dân, mà cả ngôn ngữ bình dân, đặc biệt là những tiếng có màu sắc địa phương đuợc sử dụng nhiều ở [[Nam Kỳ]] và [[Trung Kỳ]] thời bấy giờ, góp phần làm sáng tỏ rất nhiều khúc mắc ngôn ngữ học hiện đại sau này.
mà cả ngôn ngữ bình dân, đặc biệt là những tiếng có màu sắc địa phương đuợc sử dụng nhiều ở [[Nam Kỳ]] và [[Trung Kỳ]] thời bấy giờ, góp phần làm sáng tỏ rất nhiều khúc mắc ngôn ngữ học hiện đại sau này.
 
Thứ đến, cách giảng giải của ''Đại Nam quốc âm tự vị'' rất rõ ràng. Bộ sách không chỉ vắn tắt giảng nghĩa, mà đôi khi còn trình bày nguồn gốc của chữ để cho nghĩa đuợc rõ hơn, bằng cách trích thêm những câu tục ngữ, ca dao, những câu thơ [[truyện Kiều|Kiều]], [[Lục Vân Tiên]]...
Dòng 33:
Huỳnh Tịnh Của sáng tác cả thảy khoảng 17 tác phẩm. Có thể xếp chúng thành hai loại: loại biên khảo và loại phiên âm.
 
Loại biên khảo có nội dung phổ biến kiến thức hoặc sưu tầm phóng tác các tác phẩm đời truớctrước, bao gồm:
#''Chuyện giải buồn'', 2 tập, 112 truyện (in năm 1880 và 1885);
#''Maximes et proverbes'' (1882);
Dòng 39:
#''Bác học sơ giai'' (1887);
#''Quan chế'' (1888);
#''[[Ðại Nam quốcquấc âm tự vị]]'', 2 cuốn (1895 và 1896);
#''Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn'' (1897);
#''Câu hát góp'' (1904);
Dòng 67:
[[Thể loại:Tổng biên tập Việt Nam]]
[[Thể loại:Nhà báo Việt Nam]]
[[Thể loại:Người Bà Rịa - Vũng Tàu]]
[[Thể loại:Nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam]]
[[Thể loại:Nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam]]