Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tế bào mầm phôi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 9:
Theo cách hiểu cũ, những tế bào mầm sinh dục được xem là có vai trò trong sự tạo thành giao tử.
Trong vòng 10 năm trở lại đây, vai trò trung tâm của GSC trong sự tạo giao tử ngày càng được coi trọng hơn, ảnh hưởng của quá trình này như là một mô hình nghiên cứu về tế bào mầm. Với cách nhìn nhận này, đã có nhiều hoạt động nghiên cứu kết hợp giữa di truyền, sinh học tế bào, sinh học phân tử để tìm hiểu GSC. Kết quả là cho đến nay đã có những cái nhìn thấu đáo hơn về cơ chế của sự phân chia, và tự đổi mới của GSC.
 
==Nguồn gốc==
Hàng 38 ⟶ 37:
PGC là kiểu tế bào nhất thời, và không phải là tế bào gốc thực sự, khi so chúng với 1 định nghĩa về tế bào gốc. Thật vậy, chúng phù hợp hơn với tên gọi là tế bào tiền thân của các tế bào gốc dòng mầm, bởi tế bào này có các đặc tính giống với PGC không tồn tại ở động vật có vú sau khi sinh, điều này phản ánh sự thiếu hoạt tính tự làm mới của PGC.
 
Mặc dù PGC là quần thể tế bào nhất thời, nhưng chúng có tiềm năng quan trọng là tạo ra 1 nguồn các tế bào gốc, không chỉ đối với các tế bào gốc dòng mầm đực mà kể cả các tế bào khối u phôi đa năng (EC), cũng như các tế bào mầm phôi toàn năng (EG).
 
*Từ những năm 1950 -1970, Leroy Stevens đã nghiên cứu các teratoma/ teratocarcinoma. Khi thử nghiệm trên chuột, Leroy Stevens cho thấy việc cấy phôi nang hay rãnh sinh dục (10,5 – 12,5 dpc) vào tinh hoàn chuột trưởng thành sẽ gây nên sự xuất hiện khối u teratocarcinoma, và nhiều loại tế bào đã được phát hiện trong chính khối u đó. Ông đã xác định PGC là nguồn gốc của các teratocarcinoma, chúng được tạo ra sau khi cấy các rãnh sinh dục vào tinh hoàn chuột trưởng thành. Các teratocarcinoma có chứa tế bào gốc, sau đó có thể thu nhận được chúng, đó là các tế bào EC.
Hàng 60 ⟶ 59:
Hầu hết các trở ngại trong nghiên cứu tế bào gốc là làm sao phát hiện tế bào gốc khi muốn dựa vào chức năng của chúng, các thí nghiệm này rất tốn thời gian, nhưng có độ nhạy thấp. Qua đó, việc nghiên cứu để xác định các marker của loại tế bào này là rất cần thiết.
 
Một chiến lược nhằm xác định marker tế bào gốc được tiến hành như sau:
 
*Trước hết, một phân tử có thể là một marker tế bào gốc được lựa chọn.
Hàng 69 ⟶ 68:
 
Nếu phân tử chọn có biểu hiện chỉ ở tế bào gốc, và khi quần thể tế bào được chọn có chứa tế bào gốc, chúng sẽ biểu hiện hoạt tính tế bào gốc ở mức cao hơn, so với tế bào khác (không được chọn).
Tại tất cả giai đoạn phát triển của tế bào PGC, người ta khó phân biệt được tế bào PGC và những tế bào sinh dưỡng khác. Hiện tại có 3 phương pháp xác định tế bào mầm sinh dục dựa vào:
 
*Đặc điểm hình dạng.
Hàng 106 ⟶ 105:
Tế bào mầm là một mô hình thích hợp cho việc kiểm nghiệm các chất, hợp chất. Riêng với tế bào gốc sinh dục, vì bản chất của nó là biệt hóa thành giao tử, do đó là mấu chốt cho hiện tượng vô sinh. Những nghiên cứu gần đây công bố cho thấy việc sử dụng tế bào gốc sinh dục làm mô hình cho việc kiểm nghiệm các chất gây vô sinh là thích hợp và hiệu quả.
 
Ngày nay, sự ô nhiễm môi trường, sự ra đời của nhiều hóa chất tổng hợp mới làm gia tăng nguy cơ gây vô sinh. Do vậy, bên cạnh việc kiểm nghiệm độc tố gây ung thư thì việc kiểm nghiệm khả năng gây vô sinh là cần thiết đối với các chất mới trước khi đưa ra sử dụng.
 
===Nguồn gốc tế bào gốc đa năng.===