Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cộng hòa lập hiến”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Caroten (thảo luận | đóng góp)
Caroten (thảo luận | đóng góp)
Dòng 3:
 
== Mục đích và tầm mức ==
Các cộng hòa lập hiến là một nỗ lực có chủ ý nhằm giảm bớt mối họa [[đa số thống trị]], cho nên có thể bảo vệ được các cá nhân bất đồng và những nhóm [[thiểu số]] khỏi họa chuyên chế của nhóm đa số bằng cách áp đặt kiểm soát trên quyền lực của nhóm đa số.<ref>House, Wayne H. ''Christian and American Law''. Kregel Publications. p. 101 & Honohan, Iseult. Republicanism in Theory and Practice. Routledge UK 2006. p. 115</ref> Quyền lực của nhóm đa số bị kiểm soát qua việc giới hạn quyền lực của nó bằng cách bầu lên những đại diện cầm quyền trong giới hạn của luật hiến định bao quát hơn là qua bầu cử để có được quyền tự lập nên pháp luật. [[John Adams]] định nghĩa một cộng hòa lập hiến là "''một chính phủ với luật pháp, và không phải là chính phủ với những con người.''"<ref>Levinson, Sanford. ''Constitutional Faith''. Princeton University Press, 1989, p. 60</ref> Cũng như vậy, quyền lực của các quan chức chính phủ bị kiểm soát bằng cách không để một cá nhân nào giữ hết các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Thay vào đó, các quyền lực này được phân chia thành các ngành riêng biệt mà phục vụ như là một hệ thống kiểm soát và quân bình đối trọng với nhau. Một cộng hòa lập hiến được tạo hình để "'''''không một ai hay nhóm nào [có thể] vượt lên giữ quyền tuyệt đối.'''''"<ref>Delattre, Edwin. ''Character and Cops: Ethics in Policing'', American Enterprise Institute, 2002, p. 16.</ref>
 
Khái niệm về cộng hòa lập hiến bắt nguồn từ công trình [[triết học]] "[[Chính trị (Aristotle)|Chính trị]]" của [[Aristoteles|Aristotle]] và khái niệm của ông về một chính thể khả dĩ thứ năm gọi là "polity". Ông đối chiếu "polity" của chính thể [[cộng hòa]] với chính trị [[dân chủ]] và [[chính trị đầu sỏ|quả đầu chế]] trong sách số 3, chương thứ 6 của tác phẩm "Chính trị". "Polity", theo nghĩa diễn tả thông thường, có thể ám chỉ đến hệ thống tổ chức [[chính trị]] được một nhóm người đặc biệt nào đó sử dụng, thí dụ như một [[bộ lạc]], một [[quốc gia thành phố]], một [[đế quốc]], một tập đoàn,... Trong nghĩa thứ hai đặc biệt hơn của Aristotle về từ này là ông viễn tượng một "polity" mà trong đó có sự kết hợp những điều theo ông nghĩ là các đặc điểm tốt nhất của cả [[chính trị đầu sỏ|quả đầu chế]] (cai trị bởi người giàu có) và chính trị dân chủ (cai trị bởi người nghèo). Chính phủ theo hình thức "polity" này sẽ được nhiều người quản trị mà có lợi ích nhất như có thể cho toàn thể mọi người.
 
[[Chính trị đầu sỏ|Quả đầu chế]] (''Oligarchies'') chuộng các thành viên giàu có của xã hội và có vai trò trong các vị trí lãnh đạo được bầu. Chính trị dân chủ chuộng các thành viên trung lưu và nghèo khó mà thường thường chiếm đa số, và có vai trò như các đại hội đồng lập pháp mở rộng cho tất cả các công dân trong tuổi bầu cử. Aristotle nghĩ rằng nếu được quan tâm và sử dụng đúng thì hình thức chính phủ "polity" sẽ là chính phủ lý tưởng nhất như có thể vì nó có thể nhận ý kiến từ các thành viên cộng đồng thuộc mọi tầng lớp và cai trị công bằng theo lợi ích của toàn cộng đồng chớ không phải chỉ riêng cho nhóm đa số.
 
Các cộng hòa lập hiến là một nỗ lực có chủ ý nhằm giảm bớt mối họa [[đa số thống trị]], cho nên có thể bảo vệ được các cá nhân bất đồng và những nhóm [[thiểu số]] khỏi họa chuyên chế của nhóm đa số bằng cách áp đặt kiểm soát trên quyền lực của nhóm đa số.<ref>House, Wayne H. ''Christian and American Law''. Kregel Publications. p. 101 & Honohan, Iseult. Republicanism in Theory and Practice. Routledge UK 2006. p. 115</ref> Quyền lực của nhóm đa số bị kiểm soát qua việc giới hạn quyền lực của nó bằng cách bầu lên những đại diện cầm quyền trong giới hạn của luật hiến định bao quát hơn là qua bầu cử để có được quyền tự lập nên pháp luật. [[John Adams]] định nghĩa một cộng hòa lập hiến là "''một chính phủ với luật pháp, và không phải là chính phủ với những con người.''"<ref>Levinson, Sanford. ''Constitutional Faith''. Princeton University Press, 1989, p. 60</ref> Cũng như vậy, quyền lực của các quan chức chính phủ bị kiểm soát bằng cách không để một cá nhân nào giữ hết các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Thay vào đó, các quyền lực này được phân chia thành các ngành riêng biệt mà phục vụ như là một hệ thống kiểm soát và quân bình đối trọng với nhau. Một cộng hòa lập hiến được tạo hình để "'''''không một ai hay nhóm nào [có thể] vượt lên giữ quyền tuyệt đối.'''''"<ref>Delattre, Edwin. ''Character and Cops: Ethics in Policing'', American Enterprise Institute, 2002, p. 16.</ref>
 
Cộng hòa lập hiến được chủ trương đầu tiên trong thế kỷ 18 và thế kỷ 19 bởi [[chủ nghĩa tự do|những người theo chủ nghĩa tự do]] vào lúc đó bị vây trong cuộc xung đột ý thức hệ và chính trị chống những người theo [[chủ nghĩa bảo thủ]] hoàng gia truyền thống. Từ đầu thế kỷ 20, cộng hòa lập hiến đã nhập vào dòng trào lưu chính trị và đã nhận được sự ủng hộ của nhiều ý thức hệ khác ngoài [[chủ nghĩa tự do]]. Tranh cãi chính trị về vấn đề chủ nghĩa cộng hòa lập hiến phần lớn không sôi động.
 
[[Hoa Kỳ]] là một trong những cộng hòa lập hiến xưa nhất trên thế giới. Theo James Woodburn, trong ''The American Republic and Its Government'' (Cộng hòa Mỹ và chính phủ của nó), "''cộng hòa lập hiến với những giới hạn áp đặt trên chính phủ toàn dân rỏ ràng là có dính líu với Hiến pháp như thấy được trong việc bầu cử Tổng thống, bầu cử [[Thượng viện Hoa Kỳ|Thượng viện]] và bổ nhiệm [[Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ|Tối cao Pháp viện]].''" Có nghĩa là khả năng của người dân chọn các quan chức trong chính phủ bị kiểm soát bằng cách không cho họ bầu lên các Thẩm phán của Tối cao Pháp viện. Woodburn nói rằng trong một nền cộng hòa, nên phân biệt với một nền dân chủ, người dân không chỉ bị kiểm soát trong việc chọn lựa các quan chức mà còn trong việc làm luật.<ref>Woodburn, James Albert. ''The American Republic and Its Government'': An Analysis of the Government of the United States'', G. P. Putnam, 1903, pp. 58-59</ref> Luật nhân quyền tồn tại trong Hiến pháp Hoa kỳ là để bảo vệ một số quyền cá nhân nào đó. Những quyền cá nhân được liệt kê trong Luật nhân quyền không thể nào bị đa số công dân bỏ phiếu xóa bỏ nếu họ muốn đàn áp nhóm thiểu số không đồng ý với những giới hạn về quyền tự do mà nhóm đa số muốn áp đặt. Để xóa bỏ những quyền này phải cần có các quan chức chính phủ khắt phục được những kiểm soát của hiến pháp cũng như sự biểu quyết đồng thuận của 2 phần 3 đa số ở [[Quốc hội Hoa Kỳ|Quốc hội]] và phải được thông qua bởi ba phần tư số tiểu bang để tu chính Hiến pháp.
 
Một cộng hòa lập hiến là một hình thức [[dân chủ tự do]], nhưng không phải tất cả những nền dân chủ tự do đều là cộng hòa lập pháp. Thí dụ, mặc dù người đứng đầu quốc gia không được bầu lên trong một [[chế độ quân chủ]], nó vẫn có thể là một chế độ dân chủ tự do nếu có một quốc hội với những dân biểu được bầu lên điều hành quốc gia theo luật hiến định bảo vệ những quyền cá nhân (được gọi là một ''[[quân chủ lập hiến|nền quân chủ dân chủ lập hiến]]''). Cũng như vậy, một nền [[dân chủ đại nghị]] có thể là hoặc không thể là một cộng hòa lập hiến. Thí dụ, "Hoa Kỳ dựa vào nền dân chủ đại nghị, nhưng hệ thống chính phủ của Hoa Kỳ thì phức tạp hơn nhiều. Hoa Kỳ không phải là một nền dân chủ đại nghị đơn giản, mà là một cộng hòa lập hiến mà trong đó khối đa số cầm quyền bị chi phối bởi các quyền của thiểu số được luật pháp bảo vệ."<ref>Scheb, John M. ''An Introduction to the American Legal System''. Thomson Delmar Learning 2001. p. 6</ref>
 
[[Hoa Kỳ]] là một trong những cộng hòa lập hiến xưa nhất trên thế giới. Theo James Woodburn, trong ''The American Republic and Its Government'' (Cộng hòa Mỹ và chính phủ của nó), "''cộng hòa lập hiến với những giới hạn áp đặt trên chính phủ toàn dân rỏ ràng là có dính líu với Hiến pháp như thấy được trong việc bầu cử Tổng thống, bầu cử [[Thượng viện Hoa Kỳ|Thượng viện]] và bổ nhiệm [[Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ|Tối cao Pháp viện]].''" Có nghĩa là khả năng của người dân chọn các quan chức trong chính phủ bị kiểm soát bằng cách không cho họ bầu lên các Thẩm phán của Tối cao Pháp viện. Woodburn nói rằng trong một nền cộng hòa, nên phân biệt với một nền dân chủ, người dân không chỉ bị kiểm soát trong việc chọn lựa các quan chức mà còn trong việc làm luật.<ref>Woodburn, James Albert. ''The American Republic and Its Government'': An Analysis of the Government of the United States'', G. P. Putnam, 1903, pp. 58-59</ref> Luật nhân quyền tồn tại trong Hiến pháp Hoa kỳ là để bảo vệ một số quyền cá nhân nào đó. Những quyền cá nhân được liệt kê trong Luật nhân quyền không thể nào bị đa số công dân bỏ phiếu xóa bỏ nếu họ muốn đàn áp nhóm thiểu số không đồng ý với những giới hạn về quyền tự do mà nhóm đa số muốn áp đặt. Để xóa bỏ những quyền này phải cần có các quan chức chính phủ khắt phục được những kiểm soát của hiến pháp cũng như sự biểu quyết đồng thuận của 2 phần 3 đa số ở [[Quốc hội Hoa Kỳ|Quốc hội]] và phải được thông qua bởi ba phần tư số tiểu bang để tu chính Hiến pháp.
 
== Ủng hộ ==