Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nam Ông mộng lục”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 2 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q6961176 Addbot
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 3:
==Tác giả==
:{{Chính| Hồ Nguyên Trừng}}
[[Hồ Nguyên Trừng]] (không rõ năm sinh và năm mất)<ref>Các sách dùng để tham khảo đều ghi không rõ. Ở Wikipedia [[tiếng Trung Quốc]] ghi ông sinh năm [[1374]] và mất năm [[1446]] tại [[Trung Quốc]], có lẽ căn cứ vào [[Minh sử]]. Xem chi tiết ở trang [[Hồ Nguyên Trừng]].</ref>, nguyên họ Lê, tên tự: Mạng Nguyên, biệt hiệu: Nam Ông); là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (nay thuộc tỉnh [[Thanh Hóa]]). Ông là con trai cả của vua [[Hồ Quý Ly]], và là anh của vua [[Hồ Hán Thương]] trong [[lịch sử Việt Nam]].
 
Dưới triều [[nhà Trần]], Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự, Tư đồ. Đầu năm [[1400]], cha ông truất ngôi [[Trần Thiếu Đế]], tự lên ngôi vua, lập nên [[nhà Hồ]]. Sau đó, Hồ Nguyên Trừng được cử làm Tả tướng quốc.
 
Năm [[1406]], lấy cớ "Phù [[Nhà Trần|Trần]] diệt [[Nhà Hồ|Hồ]]", vua [[nhà Minh]] sai [[Trương Phụ]] và [[Mộc Thạnh]] mang 80 [[vạn]] quân sang đánh nước Việt. Nhiều lần, Hồ Nguyên Trừng được giao nhiệm vụ cầm quân chống lại.
 
Ngày [[12 tháng 5]] ([[âm lịch]]) năm [[Đinh Hợi]] ([[1407]]), cả ba cha con ông và người cháu là Hồ Nhuế (con [[Hồ Hán Thương]]) đều bị quân [[nhà Minh]] bắt tại Kỳ La ([[Kỳ Anh]], [[Hà Tĩnh]]), rồi bị áp giải về Kim Lăng ([[Nam Kinh]], [[Trung Quốc]]). Kể từ đó, [[nhà Hồ]] mất ngôi, cả nước Việt rơi vào ách thống trị của [[nhà Minh]].
 
Biết được Hồ Nguyên Trừng (và Hồ Nhuế) có tài năng, vua [[Minh Anh Tông]] cho ân xá, nhưng buộc phải đổi họ khác (vì không thừa nhận gia đình ông là dòng dõi [[Thuấn|Ngu Thuấn]]<ref>Chi tiết này căn cứ theo ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'' (tr. 277). Thông tin thêm: Lê Quý Ly sở dĩ đổi sang họ Hồ vì tự nhận mình là dòng dõi vua [[Thuấn]]. Xem chi tiết ở trang [[Hồ Quý Ly]].</ref>). Vì vậy ở sách ''Nam Ông mộng lục'', tác giả đề tên là '''Lê Trừng''' (đổi lại họ Lê như cũ).
Dòng 21:
Tác phẩm gồm 31 thiên, trong một số văn bản chỉ ghi 28 thiên (ba thiên thiếu đều nằm sau thiên 23, đó là: ''Mệnh thông thi triệu, Thi chí công danh, Tiểu thi lệ cú'').
Sách được in lần đầu vào năm [[1442]] ở [[Trung Quốc]] (năm này tương ứng với thời [[Nhà Lê sơ|Lê sơ]] ở [[Việt Nam]]), nằm trong Tập IX của bộ ''Tùng thư Hàm lâu bí kíp''.
 
Trong sách có bài tựa của Hồ Huỳnh (người [[nhà Minh]], làm Thượng thư đồng triều với tác giả), viết năm [[1440]]); thứ đến bài tựa của tác giả đề năm [[1438]]. Cuối sách có bài hận tự của Tống Chương (người [[Việt Nam]], làm quan cho triều Minh), viết năm [[1442]]. Sau cùng là bài bạt của Tôn Dục Tú, viết năm [[1440]], nói về việc xuất bản sách này.