Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trịnh Hoài Đức”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
'''Trịnh Hoài Đức''' ([[chữ Hán]]: 鄭懷德; [[1765]] - [[1825]]), còn có tên là An(安), tự '''Chỉ Sơn'''(止山), hiệu '''Cấn Trai'''(艮齋); là một công thần của triều [[Nguyễn]], là một [[nhà thơ]], nhà văn và là một sử gia nổi tiếng của [[Việt Nam]] trong [[thế kỷ 18]]. Sinh thời, ông từng được vua [[nhà Nguyễn]] ban tước ''An Toàn hầu'' <ref>[[Trần Văn Giáp]], ''Tìm hiểu kho sách Hán Nôm'', Nxb Khoa học xã hội, 2003, tr. 1033.</ref>.
Đặc biệt, quyển ''[[Gia Định thành thông chí]]'' của ông cho đến nay vẫn được xem là một trong những sử liệu quan trọng nhất cho các nhà nghiên cứu [[lịch sử|sử học]] và [[địa lý]] của miền Nam [[Việt Nam]].
 
==Thân thế và sự nghiệp==
Tổ tiên ông vốn là người tỉnh [[Phúc Kiến]] ([[Trung Quốc]]), sang [[Đàng Trong]] (thuộc [[Việt Nam]] ngày nay) thời chúa [[Nguyễn Phúc Tần]] <ref name="TVT">Theo GS. Trịnh Vân Thanh, tr. 1393.</ref>; trước ngụ ở [[Cố đô Huế|Phú Xuân]] ([[Huế]]), sau vào ở Trấn Biên (vùng [[Biên Hòa]] ngày nay).
 
Cha ông tên là Khánh, vốn dòng dõi khoa hoạn, được chúa [[Nguyễn Phúc Khoát]] thu dụng, cho làm An Dương Cai thủ, rồi làm Chấp canh tam trường Cai đội <ref name="TVT" />.
 
Năm lên 10, cha mất, Trịnh Hoài Đức theo mẹ vào sống ở [[Gia Định]], theo học với thầy [[Võ Trường Toản]] tại Hòa Hưng (nay thuộc [[quận 10, thành phố Hồ Chí Minh|quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh]]). Trong số bạn học của ông lúc bấy giờ, có [[Ngô Tùng Châu]] và [[Lê Quang Định]], về sau cũng đều là công thần của nhà Nguyễn.
 
Khi quân [[Nhà Tây Sơn|Tây Sơn]] vào Nam, ông chạy sang [[Chân Lạp]] ([[Campuchia]] ngày nay) <ref>Theo Triêu Dương, tr. 1823</ref>.
 
Năm [[Mậu Thân]] ([[1788]]), sau khi đánh lấy được Gia Định, chúa [[Gia Long|Nguyễn Phúc Ánh]] cho mở khoa thi để chọn người giúp việc. Trịnh Hoài Đức đỗ khoa ấy, được bổ làm Hàn lâm chế cáo. Đến năm sau ([[1789]]), ông được bổ làm Tri huyện ở Tân Bình <ref name="TVT" />, rồi được kiêm làm Điền toán trông coi việc khai khẩn đất đai ở Gia Định. Sách ''Quốc triều sử toát yếu'' chép:
:''"Năm [[Kỷ Dậu]] ([[1789]]), [[tháng sáu|tháng 6]], ...mới đặt quan Điền toán (coi về sự cày cấy làm ruộng), cho bọn Hàn lâm chế cáo là Trịnh Hoài Đức, [[Lê Quang Định]], [[Ngô Tùng Châu]], Hoàng Minh Khánh, cả thảy 12 người kiêm việc này''...<ref>[[Quốc sử quán (triều Nguyễn)|Quốc sử quán triều Nguyễn]], ''Quốc triều sử toát yếu'', phần "Chính biên", Nxb Văn học, 2002, tr. 43.</ref>.
 
[[Tháng ba|Tháng 3]] năm [[Quý Sửu]] ([[1793]]), ông lãnh chức Đông Cung Thị Giảng. [[Tháng mười một|Tháng 11]] năm đó, ông được cử theo Đông Cung Cảnh ([[Nguyễn Phúc Cảnh]]) ra giữ [[thành cổ Diên Khánh|thành Diên Khánh]] .
 
Năm sau ([[Giáp Dần]], [[1794]]), ông được thăng làm ký lục dinh Trấn Dinh, rồi được bổ làm Hộ bộ Hữu Tham tri.
 
Năm [[Tân Dậu]] ([[1801]]), khi chúa Nguyễn mang quân ra đánh lấy [[Cố đô Huế|Phú Xuân]], Trịnh Hoài Đức lo việc gặt hái ở [[Quảng Nam]] và [[Quảng Ngãi]] để tiếp vận quân lương <ref name="TVT" />.
 
[[Tháng năm|Tháng 5]] năm [[Nhâm Tuất]] ([[1802]]) chúa Nguyễn lên ngôi ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là [[Gia Long]]. Sau đó, ông được phong làm [[Thượng thư]] [[bộ Hộ]], đồng thời sung làm Chánh sứ sang [[Nhà Thanh|Thanh]] (Trung Quốc). Cùng đi với ông hai Phó sứ là Hữu Tham tri [[bộ Binh]] [[Ngô Nhân Tịnh]] (hay Tĩnh) và Hữu Tham tri [[bộ Hình]] [[Hoàng Ngọc Uẩn]] <ref>''Quốc triều sử toát yếu'', tr. 72.</ref>.
 
Năm [[1808]], ông được bổ làm Hiệp trấn [[Gia Định Thành]], phụ tá cho Tổng trấn [[Nguyễn Văn Nhơn]] (hay Nhân). Năm [[1812]], ông được bổ nhiệm làm [[Bộ Lễ|Lễ bộ]] Thượng thư, kiêm quản Khâm thiên giám. Năm [[1813]] lại đổi làm [[Lục bộ#Bộ Lại|Lại bộ]] Thượng thư. Năm [[1816]] ông lại được bổ nhiệm làm Hiệp Tổng trấn Gia Định Thành lần thứ hai. Sau khi, Tổng trấn Nhơn về kinh, ông tạm giữ quyền Tổng trấn ([[1820]])<ref name="GDX">Gia Định xưa, tr. 120-121.</ref>.
Dòng 32:
Năm [[1822]], ông được cử làm Giám khảo kỳ thi ân khoa<ref>Trần Văn Giáp (tr. 1003) và Bùi Văn Vượng (tr. 100).</ref>.
 
Năm [[1823]], thấy mình già yếu, ông dâng sớ xin từ quan. Vua [[Minh Mạng]] sai đại thần [[Phạm Đăng Hưng]] đến thăm và lưu ở lại, ông đành phải xin về nghỉ dưỡng 3 tháng. Mãn hạn nghỉ phép, ông trở ra [[Huế]], nhà vua ban cho ông 2.000 quan tiền và vật liệu để ông làm nhà ở phía cửa Đông ngoài thành.
 
[[Tháng hai|Tháng 2]] năm [[Tân Tỵ]] ([[1825]]), Trịnh Hoài Đức mất vì bệnh tại Huế, thọ 61 tuổi. Vua bãi triều 3 ngày, truy tặng ông là ''Thiếu bảo Cần chánh điện Đại học sĩ'', ban tên thụy là ''Văn Khắc'' <ref>Tháng năm mất, tước vị, tên thụy đều biên theo ''Quốc triều sử toát yếu'', (tr. 166). Có sách chép là "Văn Khác".</ref>, phái Hoàng tử Miên Hoằng đưa linh cửu của ông về Gia Định. Khi linh cửu của ông về tới nơi, Tổng trấn [[Lê Văn Duyệt]] đã đích thân tới phúng điếu và đi đưa tới huyệt tại làng Bình Trúc (hay Trước; nay là tại khu phố III, thuộc phường Trung Dũng, TP. Biên Hòa).<ref>''Gia Định xưa'' (tr. 121) và Trịnh Vân Thanh (tr. 1394).</ref>.
 
Năm [[Tự Đức]] thứ 5 ([[1852]]), bài vị của ông đưa đưa vào trong [[miếu Trung Hưng Công Thần]]; và đến năm [[1858]], lại được đưa vào thờ trong [[đền Hiền Lương nhà Nguyễn|đền Hiền Lương]] <ref>Trịnh Vân Thanh, tr. 1394.</ref>.
Dòng 49:
Về thơ [[Chữ Nôm|Nôm]], ông có 18 bài viết theo kiểu liên hoàn có nhan đề là ''Đi sứ cảm tác'' <ref>Theo Bùi Văn Vượng, tr. 100-101.</ref>.
 
Nhìn chung, thơ Trịnh Hoài Đức thường là thơ thất ngôn bát cú; và đề tài thường là “trữ tình”, hay miêu tả “cảnh vật, sinh hoạt” của nhân dân ở những nơi ông ở hoặc đi qua.
 
*'''[[Gia Định thành thông chí]]''': gồm 6 quyển, viết bằng [[chữ Hán]], không có lời tựa, nên không biết tác giả biên soạn vào năm nào và trong hoàn cảnh nào. Chỉ biết là sách hoàn thành trong đời [[Gia Long]], cho nên ngay khi vua [[Minh Mạng]] xuống chiếu cầu sách cũ (1820), ông đã đem dâng lên. Nội dung bộ sách ghi chép khá đầy đủ về núi sông, cửa biển, phong tục, sản vật, con người ở Gia Định ([[Nam Bộ Việt Nam|Nam Bộ]] ngày nay), v.v... Đây là một công trình được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao, và đã được dịch ra tiếng Pháp từ cuối [[thế kỷ 19]]<ref>Theo Triêu Dương, tr. 1823.</ref>.