Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Thị Thập”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuanUt-Bot! (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tiểu sử: Sửa liên kết do nhằm lẫn, replaced: Thành Phố Hồ Chí MinhThành phố Hồ Chí Minh (2)
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
Dòng 3:
 
==Tiểu sử==
Bà tên thật là '''Nguyễn Thị Ngọc Tốt''', sinh ngày [[10 tháng 10]] năm [[1908]] tại xã [[Long Hưng]], huyện [[Châu Thành, Tiền Giang|Châu Thành]], tỉnh [[Tiền Giang]] ngày nay (trước là tỉnh [[Mỹ Tho]])<ref>[http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/banchaphanh/details.asp?topic=105&subtopic=211&leader_topic=505&id=BT2631035883 Đồng chí Nguyễn Thị Thập]</ref>. Từ năm 20 tuổi, bà đã giác ngộ lí tưởng cách mạng, tham gia tổ chức Nông hội ở quê nhà. Năm [[1931]], bà được kết nạp vào [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]]. Từ đó bà lấy bí danh là '''Mười Thập'''<ref>Có lẽ do ngày sinh 10 tháng 10 nên bà đặt bí danh này?</ref>, hay '''Nguyễn Thị Thập'''. Sau đó thoát ly hoạt động phong trào, xây dựng cơ sở ở Mỹ Tho, [[Tân An]], [[Bến Tre]], [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]]. [[Tháng tư|Tháng 4]] năm [[1935]], bà được bầu vào Xứ ủy Nam Kỳ. [[Tháng năm|Tháng 5]] năm [[1935]], bà bị Pháp bắt, bị kết án tù. Hết hạn tù, bà về quê bí mật tham gia hoạt động cách mạng. Sau cuộc lãnh đạo nông dân biểu tình chống thuế ở xã Long Hưng, bà lại bị bắt giam nhưng đồng bào các xã Long Hưng, Long Định đã kéo tới giải thoát cho bà.
 
Năm [[1940]], bà ở trong Ban lãnh đạo cuộc [[khởi nghĩa Nam Kỳ]] tại tỉnh Mỹ Tho. Chồng bà cũng là một chiến sĩ cộng sản bị thực dân Pháp giam ngoài [[Côn Đảo]] từ năm [[1930]], vừa mới về tham gia cuộc khởi nghĩa. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ, chồng bà bị bắt ([[Tháng một|Tháng 1]]-[[1941]]), sau đó bị Pháp xử tử hình. Năm [[1945]], bà tham gia lãnh đạo giành chính quyền tại tỉnh Mỹ Tho. Năm [[1946]], bà được bầu là Đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
 
Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, bà được chỉ định là Bí thư Đảng đoàn phụ nữ Nam Bộ, là Hội trưởng Phụ nữ Nam Bộ. Sau khi tập kết ra miền Bắc (1954), bà được bầu là Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1956-1974). Năm 1955, bà được bầu vào Ban chấp hành TW Đảng Lao động Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu (năm 1980). Bà còn được Đảng và Nhà nước Việt Nam giao nhiều chức vụ quan trọng như: Bí thư Đảng đoàn phụ nữ kiêm Trưởng ban phụ vận Trung ương Đảng.
 
Liên tục từ khóa I đến khóa VI, bà được bầu vào Quốc hội và giữ chức vụ Phó Chủ tịch Quốc hội từ khóa II đến khóa VI. Bà được Nhà nước tặng thưởng [[Huân chương Sao vàng (Việt Nam)|Huân chương Sao Vàng]] - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam và danh hiệu [[Bà mẹ Việt Nam anh hùng]].
 
Bà mất ngày [[19 tháng 3]] năm [[1996]] tại [[Thành phố Hồ Chí Minh]]. Theo di nguyện, bà được an táng tại Nghĩa trang liệt sỹ tỉnh Tiền Giang, cạnh mộ chồng.