Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quách Quỳ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Addbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Di chuyển 1 liên kết ngôn ngữ đến Wikidata tại d:q6688191 Addbot
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Quách Quỳ ''', ([[tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]]: 郭逵, [[1022]]—[[1088]]), tự '''Trọng Thông''', tổ tiên là người gốc Cự Lộc (nay là huyện Trác, [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Trung Quốc]]), sau di cư tới [[Lạc Dương]]<ref name=TS290>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%AE%8B%E5%8F%B2/%E5%8D%B7290#.E9.83.AD.E9.80.B5 Tống sử: Liệt truyện, quyển 290, Quách Quỳ truyện]</ref>. Ông là con trai thứ của [[Quách Bân]], một [[danh tướng]] của [[nhà Tống|Bắc Tống]].
 
==Tiểu sử==
Những năm đầu theo binh nghiệp, Quách Quỳ trấn giữ biên giới phía tây bắc của nhà Tống trong khoảng 10 năm dưới trướng [[Phạm Trọng Yêm]]<ref name=TS290 />, lập được một số công lao, trong đó có việc kiềm chế các cuộc tấn công của nhà nước [[Tây Hạ]] (thời Cảnh Tông [[Tây Hạ Cảnh Tông|Lý Nguyên Hạo]]). Ông cũng là người có nhìn nhận sáng suốt về việc đánh chiếm Linh Vũ (nay là quận [[Linh Vũ]], thành phố [[Ngân Xuyên]]) cũng như đánh giá đúng đắn về [[Cát Hoài Mẫn]] (?-1042) khi ông cho rằng Hoài Mẫn là người hữu dũng vô mưu, tất làm hỏng việc triều đình<ref name=TS290 />. Quả nhiên sau đó Cát Hoài Mẫn thua trận, toàn quân bị diệt. Nhờ đó, ông được giao làm binh mã giám áp Chân Định<ref name=TS290 />, có công dẹp loạn trong vụ nổi dậy của binh sĩ Bảo Châu (nay là 2 huyện [[Mãn Thành]], [[Thanh Uyển]] thuộc địa cấp thị [[Bảo Định]]) và được gia thêm chức các môn chi hậu, binh mã đô giám Hoàn Khánh.
 
Mẹ ông mất, ông từ quan. Khi hết tang, giữ chức đô giám Kính Nguyên rồi chuyển sang làm thông sự xá nhân, đổi tới Hà Bắc làm Duyên biên an phủ đô giám. Cùng [[Ngô Khuê]] (1011-1068) đi sứ nhà Liêu của người Khiết Đan. Đi sứ về, bị giáng xuống làm đô giám Phần Châu (nay là huyện cấp thị [[Phần Dương]] thuộc địa cấp thị [[Lữ Lương]], tỉnh Sơn Tây)<ref name=TS290 />.
 
Khi [[Bàng Tịch]] (998-1063) trấn thủ lộ Hà Đông (nay thuộc tỉnh [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]]), ông là tướng dưới quyền trấn thủ Hãn Châu. [[Liêu Hưng Tông]] cho sứ sang đòi cắt đất huyện Thiên Trì với lý do đây là đất tông miếu của các [[nhà Liêu|vua Liêu]]. Bàng Tịch không quyết được. Quách Quỳ tra xét sổ sách, văn thư từ niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) thời [[Tống Thái Tông]] cho thấy khi đó nhà Liêu cắt đất này cho [[nhà Tống]] để làm tin nên nhất quyết không trả<ref name=TS290 />.
Dòng 10:
Từ năm Gia Hữu thứ 1 tới thứ 3 (1056-1058) thời [[Tống Nhân Tông]], khi đang là kiềm hạt lộ Kinh Hồ Bắc kiêm tri Lễ Châu (nay là huyện Lễ, địa cấp thị [[Thường Đức]], tỉnh [[Hồ Nam]]), ông có công bình cuộc nổi dậy của Bành Sĩ Hi ở [[Hồ Bắc]]. Ông được phong làm lễ tân sử, chuyển tới làm binh mã kiềm hạt lộ Kinh Hồ Nam kiêm tri châu Thiệu Châu. Sau đổi làm quan sát sứ Dung Châu, điện tiền đô ngu hậu, phó đô bộ thự lộ Kính Nguyên<ref name=TS290 />.
 
Năm Trì Bình thứ 2 ([[1065]]) thời [[Tống Anh Tông]], Quách Quỳ được phong làm kiểm hiệu thái bảo đồng thiêm thư xu mật viện. Ông được giao làm Thiểm Tây tuyên phủ sứ, phán quan Vị Châu<ref name=TS290 />.
 
Sau khi [[Tống Thần Tông]] lên ngôi, ông được đổi làm Tĩnh Nan quân lưu hậu, cải Tuyên Huy nam viện sử, phán Vận Châu (nay là huyện [[Vận Thành]], địa cấp thị [[Hà Trạch]], tỉnh [[Sơn Đông]]). Tới đây được 7 ngày lại đổi sang trấn giữ Phu Châu (nay là huyện Phú, [[Diên An|Duyên An]], [[Thiểm Tây]])<ref name=TS290 />.