Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bảo Tạng Vương”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 24:
 
== Trị vì ==
Cao Câu Ly tiếp tục cuộc chiến chống lại [[Tân La]] ở miền nam và tiến hành liên minh với [[Bách Tế]]. Tân La càng bị cô lập hơn nữa khi Cao Câu Ly phục hồi quan hệ với [[Nụy]] tại [[Nhật Bản]]. Năm 642, Tân La cử [[Tân La Thái Tông|Kim Xuân Thu]] đến để thương lượng một hiệp ước, song khi Uyên Cái Tổ Văn yêu cầu trao trả lại khu vực [[Seoul]] ngày nay thì cuộc đàm phán bị đổ vỡ, dẫn đến việc Tân La liên minh với Đường.
 
Năm 645, [[Đường Thái Tông]] đã dẫn một đội quân lớn tấn công Cao Câu Ly bằng cả đường bộ lẫn đường thủy, song Uyên Cái Tổ Văn và [[Dương Vạn Xuân]] (Yang Manchun) đã đẩy lui được cuộc xâm lược, cũng như cuộc tấn công nhỏ hơn sau này của Đường. Năm 654, Cao Câu Ly tấn công [[Khiết Đan]], những người đã liên minh với Đường. Năm 655, Cao Câu Ly và Bách Tế tấn công Tân La.
Dòng 33:
 
== Cao Câu Ly sụp đổ ==
Trong khi cuộc xung đột nội bộ vẫn tiếp diễn tại Cao Câu Ly, Uyên Nam Sinh (Yeon Namsaeng) đã dào thoát và 40 thành gần biên giới đã đầu hàng quân Đường, trong khi đó thì [[Uyên Tịnh Thổ]] (Yeon Jeong-to) đào thoát sang Tân La.
 
Kinh đô Cao Câu ly rơi vào tay liên quân Đường-Tân La vào tháng 9 âm lịch năm 668, Bản Tạng Vương bị bắt. Ông được [[Đường Cao Tông]] cho giữ chức công bộ thượng thư (工部尚書).
 
Đường phải đối mặt với nhiều vấn đề trong ciệc cai trị những cư dân Cao Câu Ly, cũng như sự kháng cự của Tân La trước sự hiện diện của Đường tại bán đảo Triều Tiên. Năm 677, Đường phong cho Bảo Tạng Vương là "Triều Tiên Vương" và đô đốc [[Liêu Đông]] châu ([[Hangul]] : 요동주도독 조선왕 [[Hanja]]:遼東州都督朝鮮王, [[Từ Hán-Việt|Hán Việt]]: Liêu Đông châu đô đốc Triều Tiên Vương) của [[An Đông đô hộ phủ]].
 
Tuy nhiên, Bảo Tạng Vương tiếp tục kích động các cuộc nổi dậy chống lại nhà Đường trong nỗ lực để phục hồi lại Cao Câu Ly, tổ chức những người Cao Câu Ly tị nạn và liên minh với các bộ tộc Mạt Hạt. ông cuối cùng bị trục xuất đến [[Tứ Xuyên]] năm 681, và mất một năm sau đó.