Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Đăng Ninh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
Ông có tên thật là '''Nguyễn Tuấn Đáng''', quê tại thôn Quảng nguyên, xã
Từ năm 1937 đến năm 1939, ông đã tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc bãi công, bãi thị, mít tinh, đấu tranh chống thuế...
Năm 1939, ông là Ủy viên Thành ủy
Ngày 11/11/1940, ông tham gia Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ 7 cùng các ông Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phan Đăng Lưu...Hội nghị đã khẳng định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 6 là đúng đắn. Hội nghị chỉ rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam lúc này là phát xít Nhật, quyết định phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và hoãn cuộc khởi nghia Nam Kỳ.
Dòng 16:
Tháng 3 năm 1943, ông vượt ngục lần thứ nhất trốn khỏi nhà tù Sơn La cùng các ông Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Văn Trân, Lưu Đức Hiểu trở về xuôi và hoạt động trong Ban thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ. Nhưng đến tháng 9 năm 1943 thì bị bắt lại và bị giam tại nhà tù Hỏa Lò Hà Nội.
Tháng 3 năm 1945, ông vượt ngục lần hai. Đây là cuộc vượt ngục
Cách mạng tháng tám nổ ra, ông được phân công cùng ông Võ Nguyên Giáp chỉ huy quân giải phóng, tiến đánh tinh lỵ Thái Nguyên, sau đó bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội.
Sau
Ngày 20/11/1946, quân Pháp ngang nhiên nổ súng đánh chiếm Hải Phòng. Ông cùng với ông Nguyễn Lương Bằng được Chu rtịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ bí mật ở lại xây dựng căn cứ địa Việt Bắc, lấy các huyện Đại Từ, Định HÓa, Phú Luơng (Thái Nguyên), Sơn Dương, yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Chợ Mới, Chợ Đồn (Bắc Cạn)làm địa bàn chính. Đồng thời, bố trí địa điểm làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương đảng, Chính phủ ở nhiều địa phương khác trong tỉnh Hà Đông (nay là Thành phố Hà Nội).
Dòng 30:
Năm 1950, ông được điều sang công tác trong quân đội, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần), Ủy viên Tổng quân ủy (1950-1955), kiêm Trưởng ban Cung cấp chiến dịch Biên giới (1950).
Trong Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Tuy nhiên, do sức khỏe kém, ông mất sau khi về tiếp quản Hà Nội một thời gian ngắn.
|