Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Đăng Ninh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Tem Trần Đăng Ninh 100d.jpg|nhỏ|500px|phải|Chân dung Trần Đăng Ninh trên tem bưu chính [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]].]]
'''Trần Đăng Ninh''' ([[1910]]-[[1955]]), nhà hoạt động cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của TổngỦy cụcban CungKiêm cấptra (sautrung ương, [[TổngChủ cụcnhiệm Hậuđầu cần,tiên Bộcủa QuốcTổng phòngcục Cung cấp (Việtsau là Nam)|Tổng cục Hậu cần]]), [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]], (1950-1955).
 
Ông có tên thật là '''Nguyễn Tuấn Đáng''', quê tại thôn Quảng nguyên, xã [[Quảng Phú Cầu]], huyện [[Ứng Hòa]], [[tỉnh Hà Đông| (nay là thành phố Hà Nội]]). Lớn lên, ông ra Hà Nội học nghề in và làm thợ tại nhà in Lê Văn Tân. Sau đó, tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1930 trong phong trào công nhân ngành in. Năm 1936, ông được cử vào nghiệp đoàn bí mật và gia nhập [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương].
 
Từ năm 1937 đến năm 1939, ông đã tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc bãi công, bãi thị, mít tinh, đấu tranh chống thuế...
 
Năm 1939, ông là Ủy viên Thành ủy [[Hà Nội]], tham gia lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân. Năm 1940, ông là ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Khi [[khởi nghĩa Bắc Sơn]] bùng nổ, ông được cử về [[Bắchuyện Sơn (huyện)|Bắc Sơn]] tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng, lập Ủy ban cách mạng, tổ chức du kích, xây dựng căn cứ Ngũ Viễn - Vũ Lăng.
 
Ngày 11/11/1940, ông tham gia Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ 7 cùng các ông Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phan Đăng Lưu...Hội nghị đã khẳng định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 6 là đúng đắn. Hội nghị chỉ rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam lúc này là phát xít Nhật, quyết định phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và hoãn cuộc khởi nghia Nam Kỳ.
Dòng 16:
Tháng 3 năm 1943, ông vượt ngục lần thứ nhất trốn khỏi nhà tù Sơn La cùng các ông Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Văn Trân, Lưu Đức Hiểu trở về xuôi và hoạt động trong Ban thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ. Nhưng đến tháng 9 năm 1943 thì bị bắt lại và bị giam tại nhà tù Hỏa Lò Hà Nội.
 
Tháng 3 năm 1945, ông vượt ngục lần hai. Đây là cuộc vượt ngục cso quy mô lớn gồm khoảng 100 tù chính trị, trong đó có các ông Đỗ Mười, Trần Tử Bình. Sau đó, ông được cử làm ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, phụ trách [[chiến khu Hoàng Hoa Thám]]. Tháng 8 năm 1945, ông được cử vào Tổng bộ [[Việt Minh]], tham gia Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc và Đại hội Quốc dân Tân Trào.
 
Cách mạng tháng tám nổ ra, ông được phân công cùng ông Võ Nguyên Giáp chỉ huy quân giải phóng, tiến đánh tinh lỵ Thái Nguyên, sau đó bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội.
 
Sau [[Cách mạng tháng Tám]] năm 1945, ông được cử làm Đặc phái viên của [[Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Ban Chấp hành Trung ương Đảng]] vào công tác ở [[Miền Trung (Việt Nam)|Trung Bộ]] và [[Nam Bộ Việt Nam|Nam Bộ]], Giữa năm 1946, ông được cử lên công tác tại Phú Thọ. Tại đây, ông bị Quốc dân đảng bắt giam và định thủ tiêu, nhưng ông thoát được.
 
Ngày 20/11/1946, quân Pháp ngang nhiên nổ súng đánh chiếm Hải Phòng. Ông cùng với ông Nguyễn Lương Bằng được Chu rtịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ bí mật ở lại xây dựng căn cứ địa Việt Bắc, lấy các huyện Đại Từ, Định HÓa, Phú Luơng (Thái Nguyên), Sơn Dương, yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Chợ Mới, Chợ Đồn (Bắc Cạn)làm địa bàn chính. Đồng thời, bố trí địa điểm làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương đảng, Chính phủ ở nhiều địa phương khác trong tỉnh Hà Đông (nay là Thành phố Hà Nội).
Dòng 30:
Năm 1950, ông được điều sang công tác trong quân đội, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần), Ủy viên Tổng quân ủy (1950-1955), kiêm Trưởng ban Cung cấp chiến dịch Biên giới (1950).
 
Trong Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]]. Ông cũng chính là nguời xây dựng hệ thống dân công tiếp tế, một yếu tố dẫn đến thắng lợi cho chiến dịch [[Chiến dịch Điện Biên Phủ|Điện Biên Phủ]].
 
Tuy nhiên, do sức khỏe kém, ông mất sau khi về tiếp quản Hà Nội một thời gian ngắn.