Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 27:
''Vai trò yếu tố địa hình kế thừa.'' Đầm phá và hệ cồn đụn chắn không thể hình thành ở vùng biển ven bờ sâu và dốc. Chính bề mặt đồng bằng aluvi cổ Pleistocen thoải và rộng ở ven bờ Huế là tiền đề quan trọng để hình thành các đầm phá cổ và phá Tam Giang đang tồn tại. Với điều kiện như vậy, hầu như không còn khả năng xuất hiện đầm phá mới phía ngoài đầm phá hiện nay. Ngoài ra, dường như là đầm Thủy Tú phát triển kế thừa trên nền lòng sông cổ (Pleistocen) còn đầm Cầu Hai thì phát triển trên nền một vịnh biển nhỏ bị đê cát phía ngoài khép kín.v.v.
''Nguồn bồi tích cát tạo thành hệ cồn đụn chắn ngoài''. Đầm phá thường hình thành ở các vùng động lực sóng mạnh và giàu bồi tích cát [7,
''Vai trò của biển tiến Flandrian đối với hình thành phá Tam Giang.'' Phleger [9] cho rằng, hầu hết đầm phá trên thế giới được hình thành trong vòng 6
<br />
Dòng 35:
<big>'''Quá trình phát triển'''</big>
''Giai đoạn khởi đầu.'' Ban đầu, đầm phá được hình thành nhờ nổi cao một dãy đảo cát chắn ngoài vùng nước nông hẹp phía trong. Quá trình bồi tụ nhờ dòng bồi tích cát dọc bờ sau đó đã nối liền dần các đảo cát chỉ để lại hai cửa chính ở Thái Dương Thượng và Vinh Hải (sát phía bắc núi Vĩnh Phong). Sự hình thành phá bắt đầu bằng quá trình bồi tụ nổi cao của hệ thống cồn cát Linh Thái - Phú Thuận với tư cách là một đảo cát chắn dần dần nổi cao, mở rộng và kéo dài về phía tây bắc. Trong khi đó, dòng bồi tích cát dọc bờ rất mạnh phát triển kéo dài cồn đụn sát biển từ Cửa Việt xuống Thái Dương Thượng. Nhờ đó, đầm phá ban đầu mới hình thành rộng, sâu hơn hiện nay và có hai cửa đều rộng, một cửa phía nam, có lẽ ở Vinh Hải sát phía bắc núi Linh Thái và một cửa phía bắc, có lẽ ở giáp phía Thái Dương Thượng và Thái Dương Hạ đã được Krempt. A
''Giai đoạn trẻ''.
''Pha 1:'' Tư Hiền là cửa chính và Phú Cam là sông lớn đổ ra đầm Cầu Hai. Sông Hương lúc ấy chia làm hai nhánh từ Thành Huế. Nhánh chính theo kênh Phú Cam, Đại Giang (vốn là lòng một phá tàn) đổ vào tây bắc Cầu Hai. Nhánh phụ, có lẽ đổ vào khu đầm Sam - An Truyền. Vực nước đầm Cầu Hai có lẽ còn lấn sâu vào cửa Đại Giang đến ngã ba sông Nông. Tư Hiền là cửa duy nhất của phá sâu, rộng.
Dòng 43:
''Pha 2:'' Tư Hiền là cửa chính, sông Phú Cam tàn, sông Hương là dòng chính đổ vào đầm phá. Qua quá trình phát triển, cửa sông Hương lúc đó là Đại Giang bị bồi tụ mạnh gây tắc nghẽn thoát nước. Hoạt động của vòm nâng hiện đại Thủy Thanh làm sông Hương đoạn Phú Cam ngày nay bị tàn đi. Sông Hương thoát dòng chính ra biển theo hướng đông bắc và có vị trí gần như ngày nay do vòm nâng Phú Vang đẩy lệch nó về phía bắc và nhận hợp lưu sông Bồ, đổ về bồn sụt hạ cửa sông Hương hiện nay và bồi tụ mạnh châu thổ trong đầm phá.
''Pha 3:'' Sự ách tắc thoát lũ do phát triển delta triều xuống ở phía nam kênh Thủy Tú dẫn đến mở cửa Thuận An. Do không có cửa thoát trực tiếp ra vị trí cửa Thuận An bây giờ, toàn bộ dòng chảy sông Hương theo đầm Thủy Tú có vai trò như kênh dẫn đổ nước vào đầm Cầu Hai. Vào mùa lũ, dòng
''Giai đoạn trưởng thành''. Thực ra đây là giai đoạn suy tàn của hệ đầm phá, gắn liền với việc mở cửa mới Thuận An và sự phân dị vực nước thành ba phần Tam Giang (tây bắc) Thủy Tú (ở giữa) và Cầu Hai (đông nam), khác nhau về hình dạng, hoàn lưu nước, quá trình trầm tích và đặc điểm sinh thái vực nước. Từ đầu thế kỷ XV đến nay, cửa Thuận An trở thành cửa chính và lối thoát nước chủ yếu của sông Hương, Tư Hiền thành cửa phụ và bị lấp, mở với nhịp điệu mau dần. Trong giai đoạn này có những sự kiện quan trọng như sông Phú Cam gần như tàn hẳn phải khơi đào, sông Bồ nhập hẳn vào sông Hương, sông Ô Lâu uốn dòng vuông góc chảy thuận hướng vào đỉnh phá Tam Giang, cửa Thuận An dịch vị trí 4 lần trên cung bờ dài 7km với chu kỳ 100 - 200 năm, vùng Tô Đà ở cửa Đại Giang bị bồi lấp tàn hẳn. Phá đã bị nông và hẹp đáng kể, ước tính bồi nông 2,4mm/năm, tổng cộng 1,5m trong giai đoạn này. Nghĩa là, độ sâu trung bình của phá trong khoảng gần 600 năm qua bị giảm đi một nửa. Riêng Cầu Hai bị bồi nông 1
Con người luôn muốn chỉnh trị hai cửa nhưng đều thất bại. Hai lần đắp đập lấp cửa Thuận An vào nửa sau thế kỷ XV và nửa đầu thế kỷ XX nhưng đập đều bị vỡ. Nhiều lần khơi thông cửa Tư Hiền khi cửa bị lấp đều không thành công. Lần cuối lấp kín và kè kiên cố cửa Tư Hiền vào năm 1995, nhưng cửa vẫn bị
<big>'''Biến động của các cửa'''</big>
Kể từ khi ra đời cửa Thuận An, cửa Tư Hiền trở thành cửa phụ và và cả hai cửa đều không ổn định. Tính không ổn định cửa biểu hiện qua các trạng thái chuyển đổi vị trí cửa, dịch cửa, mở cửa, lấp cửa, thu hẹp mặt cắt ướt hoặc biến dạng luồng cửa nhiều lần trong lịch sử. Diễn biến của qúa trình chuyến lấp cửa đầm phá được theo dõi qua các thư mục cổ “Ô châu cận lục” của Dương Văn An
'''Cửa Tư Hiền'''
Từ nhiều thế kỷ trước, hệ đầm phá chỉ có một cửa duy nhất gọi là cửa Tư Dung (nay là cửa Tư Hiền). Chỉ từ năm 1404, cửa Thuận An mở, hệ đầm phá mới có hai cửa [2]. Trên thực tế , cửa Tư Hiền gồm 2 cửa, cửa chính do dòng lũ mở thông trực tiếp ra biển ở Vinh Hiền (thôn Phú An), và cửa phụ ở Lộc Thủy (sát mũi Chân Mây Tây). Hai cửa ngăn cách nhau qua một đê cát dài 3km, cao khoảng 2 - 2,5m chạy dọc bờ. Dòng nước từ đầm phá ra biển qua cửa phụ phải chạy vòng theo một lạch nông nằm sát sau đê cát chắn. Cửa Vinh Hiền tồn tại trước. Kể từ khi cửa Thuận An mở, động lực dòng qua cửa này yếu đi và dòng bồi tích dọc bờ tạo nên một doi cát phát triển đẩy lấn cửa về phía nam đế sát mũi Chân Mây Tây. Khi cửa Lộc Thủy ở Chân Mây Tây bị tàn do bồi lấp dần thì dòng lũ mở lại cửa chính Vinh Hiền. Trạng thái cửa Tư Hiền luôn ở một trong bốn trường hợp: cửa chính mở, cửa phụ đóng; cả hai cửa đều đóng kín; cửa chính đóng, cửa phụ mở và cả hai cửa đều mở. Trường hợp 1 và 2 hoàn toàn do động lực tự nhiên tạo ra. Đã nhiều lần cửa chính bị đóng, nhân dân tổ chức đào nhưng ngay sau đó bị lấp trở lại [13]. Trường hợp 3 tồn tại khi cả hai cửa đều bị lấp và phải tiến hành đào cửa phụ sau khi việc khai đào cửa chính thất bại. Trên thực tế, chưa lần nào cửa phụ tự mở như cửa chính. Trường hợp 4 ít xảy ra và tồn tại trong thời gian ngắn vì ngay sau khi dòng lũ mở lại cửa chính, cửa phụ sẽ bị bồi lấp như sau trận lũ lịch sử tháng 11 năm 1999 [15].
Ngay sau khi cửa Thuận An mở, cửa Tư Hiền bắt đầu có xu thế bị bồi lấp. Vì vậy, năm Quang Thuận thứ 8 (1467), tham nghị Châu Hóa là Đặng Chiêm có dâng sớ xin lấp cửa Eo (Thuận An), giữ cửa Tư Dung (Tư Hiền) và đề nghị đã được chấp nhận. Cho tới năm 1811 (năm Tân Mùi, Gia Long thứ 10), cửa Vinh Hiền mở và cửa Lộc Thủy bị lấp. Như vậy trong khoảng thời gian 1404 - 1811, cửa Vinh Hiền có lẽ đã từng nhiều lần bị đóng và cửa Lộc Thủy đã từng tồn tại. Năm 1823, cửa Vinh Hiền bị lấp và năm 1844 thì cửa Vinh Hiền lại mở. Có lẽ trong khoảng 1931-1952 là thời gian cửa Thuận An bị đập đá đắp chặn, cửa Tư Hiền khá ổn định ở vị trí Lộc Thuỷ. Cho tới năm 1953, cả hai cửa bị lấp, trong đó cửa Vinh Hiền bị lấp cho tới năm 1959 thì mở. Cũng vào năm 1979, cửa Vinh Hiền bị lấp và cửa Lộc Thuỷ được mở do khai đào. Năm 1984, cửa Lộc Thủy bị lấp. Cửa Vinh Hiền mở lại năm 1990 rồi lại bị lấp lại năm 1994 và được gia cố thêm bằng kè đá granit. Đồng thời, cửa Lộc Thuỷ lại được khai đào.
Mỗi lần biến động cửa đều gây khó khăn cho đời sống cộng đồng dân cư trong khu vực. Khi cửa bị lấp, ngoài việc làm ách tắc giao thông và nghề khai thác biển khơi, còn làm thay đổi cơ cấu tài nguyên và giá trị tài nguyên sinh vật trong đầm Cầu Hai do bị ngọt hóa. Sau gần 5 năm kể từ ngày bị lấp (12/1994 - 11/1999) mặc dù đã được kè khá kiên cố cửa Tư Hiền đã bị phá mở vào ngày 2/11/1999 trong cơn ngập lụt thế kỷ khủng khiếp với mực nước dâng cao 5,94m tại Huế [4,
'''Cửa Thuận An'''
Dòng 66:
So với cửa Tư Hiền, cửa Thuận An có cơ chế và lịch sử biến động phức tạp hơn. Ngoài chế độ động lực biển san bằng bờ, sự biến động của cửa còn liên quan tới cơ chế uốn khúc của đoạn hạ lưu sông Hương, thay đổi tương quan giữa chủ lưu và chi lưu có tác dụng của vòm nâng Phú Vang. Do vậy, cửa Thuận An đã từng tồn tại nhiều vị trí cũng như tên gọi khác nhau trong lịch sử. Năm 1404, cửa Thuận An mở tại vị trí Hoà Duân bây giờ và trở thành cửa chính của hệ đầm phá. Năm 1467, sớ dâng của tham nghị Châu Hóa là Đặng Chiêm được chấp nhận, chính quyền phong kiến sai truyền dân binh lấp trở lại. Cho tới đời Cảnh Thống (1498 - 1504), cửa vỡ trở lại. Trong khoảng thời gian chừng 200 năm kể từ năm Giáp Tý (1504), cửa có vị trí ở Thái Dương Hạ. Trong khoảng thời gian chừng 200 năm tiếp theo cho tới năm 1897, cửa có vị trí tại làng Hoà Duân. Kể từ năm 1897 tới nay, cửa có vị trí cơ bản như hiện nay [8]. Cho tới ngày 11 tháng 6 năm 1904, cửa Hoà Duân mới bị lấp hẳn trong một trận bão và sau 95 năm, cửa được mở lại vào ngày 2 tháng 11 năm 1999, trong trận lũ lịch sử.
Vào năm 1931, một đập đá lớn dài 2000m, cao trình đỉnh đập ở +
'''Tình thế năm cửa trong trận lũ lịch sử năm 1999'''
|