Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kém dinh dưỡng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
tip:value for money - chi phí thấp mà hiệu quả cao
n
Dòng 32:
 
Các biện pháp dài hạn bao gồm tăng cường nguồn dinh dưỡng từ nông nghiệp bằng cách tăng sản lượng, trong khi phải đảm bảo rằng sản lượng bị ảnh hưởng tiêu cực trong tương lai phải là thấp nhất.<ref name=solcultivateplanet>{{cite journal |author=Jonathan A. Foley, Navin Ramankutty, Kate A. Brauman, Emily S. Cassidy, James S. Gerber, Matt Johnston, Nathaniel D. Mueller, Christine O’Connell, Deepak K. Ray, Paul C. West, Christian Balzer, Elena M. Bennett, Stephen R. Carpenter, Jason Hill1, Chad Monfreda, Stephen Polasky1, Johan Rockström, John Sheehan, Stefan Siebert, David Tilman1, David P. M. Zaks |title=Solutions for a cultivated planet |journal=Nature |volume=478 |issue=7369 |pages=337–342 |year=2011|month=October|pmid=21993620|url=http://www.nature.com/nature/journal/v478/n7369/full/nature10452.html |doi=10.1038/nature10452}}</ref> Những cố gắng gần đây bao gồm việc viện trợ cho nông dân.<ref name=obama>{{cite news |author= |title=Obama enlists major powers to aid poor farmers with $15 billion |agency= |work= The New York Times|newspaper= |date=2009-07-09 |url=http://www.nytimes.com/2009/07/09/world/europe/09food.html |first1=Peter |last1=Baker |first2=Celia W. |last2=Dugger}}</ref> Tuy nhiên, [[Ngân hàng Thế giới]] chỉ trích việc các chính phủ trợ cấp cho nông dân, trong khi việc sử dụng phân bón ngày càng rộng rãi<ref name=atlantic>{{cite news |author= |title=Forgotten benefactor of humanity |agency= |work= |newspaper=The Atlantic |date= |url=http://www.theatlantic.com/issues/97jan/borlaug/borlaug.htm}}</ref> có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái và sức khỏe con người<ref name=sciamfertilizenegconseq>{{Cite news|author=David Biello |title=Fertilizer Runoff Overwhelms Streams and Rivers--Creating Vast "Dead Zones" |agency= |work= |newspaper=Scientific American |date=March 14, 2008 |url=http://www.scientificamerican.com/article.cfm?id=fertilizer-runoff-overwhelms-streams |first=|last=}}</ref> và bị cản trở bời các nhóm xã hội dân sự khác.<ref name=newyorktimes>{{cite news |author= |title=Ending Famine, Simply by Ignoring the Experts |agency= |work= |newspaper=New York Times |date=2007-12-02 |url=http://www.nytimes.com/2007/12/02/world/africa/02malawi.html?pagewanted=1&_r=1 |first=Celia W. |last=Dugger}}</ref>
 
==Ở các nhóm dân số khác nhau==
Thiếu dinh dưỡng là yếu tố quan trọng quyết định đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em, chiếm hơn một phần ba số trẻ tử vong và hơn 10% tổng số gánh nặng bệnh tật trên toàn cầu theo một nghiên cứu năm 2008.<ref name="Black2008">{{cite doi|10.1016/S0140-6736(07)61690-0}}</ref>
===Ở nữ giới===
Các nhà nghiên cứu của trung tâm Nghiên cứu Lương thực Thế giới trong năm 2003 thấy có một khoảng trống giữa các mức độ thiếu dinh dưỡng giữa nam và nữ nhìn chung là nhỏ, nhưng khoảng trống này khác nhau giữa các khu vực và giữa các quốc gia.<ref name="Nube 2003" /> Các nghiên cứu trên quy mô nhỏ này cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nữ cao hơn ở nam ở các quốc gia Nam/Đông Nam Á và châu Mỹ Latinh và thấp hơn ở vùng hạ Sahara châu Phi.<ref name="Nube 2003" /> Các tập dữ liệu ở Ethiopia và Zimbabwe cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nam cao hơn từ 1,5 đến 2 lần so với ở nữ; tuy nhiên, ở Ấn Độ và Pakistan, tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nữ cao hơn ở nam từ 1,5 đến 2 lần. Những thay đổi trong một quốc gia cũng có, với khoảng trống cao thường xuyên giữa các khu vực.<ref name="Nube 2003">{{Cite doi| 10.1080/0301446031000119601}}</ref> Bất bình đẳng giới về dinh dưỡng ở một số quốc gia như Ấn Độ thể hiện trong tất cả các giai đoạn của đời người.<ref name="Women 2008">{{cite journal|last=Dewan|first=Manju|title=Malnutrition in Women|journal=Stud. Home Comm. Sci.|year=2008|volume=2|issue=1|pages=7–10|url=http://www.krepublishers.com/02-Journals/S-HCS/HCS-02-0-000-08-Web/HCS-02-1-001-08-Abst-Text/HCS-02-1-007-08-013-Dewan-M/HCS-02-1-007-08-013-Dewan-M-Tt.pdf|accessdate=March 2012}}</ref>
 
===Ở trẻ em===
WHO ước tính rằng suy dinh dưỡng chiếm 54% trẻ tử vong trên thế giới,<ref name="Nutrition in pediatrics" /> tức khoảng một triệu trẻ.<ref name=ENJM013113 /> Thậm chí độ nhẹ của suy dinh dưỡng tăng cấp đôi nguy cơ tử vong do các bệnh đường hô hấp và tiêu chảy và bệnh sốt rét.<ref name="Nutrition in pediatrics" /> Nguy cơ này tăng mạnh ở những ca suy dinh dưỡng nghiêm trọng.<ref name="Nutrition in pediatrics" /> Có ba biện pháp thường được sử dụng để phát hiện suy dinh dưỡng ở trẻ: thấp còi (cực kỳ thấp so với tuổi của chúng), nhẹ cân (cực kỳ nhẹ cân so với tuổi của chúng), và ốm gầy (cực kỳ nhẹ cân so với chiều cao).<ref name="Wagstaff 1999" /> Các biện pháp xác định suy dinh dưỡng này có quan hệ với nhau, nhưng các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy rằng chỉ có 9% trẻ thể hiện thấp còi, nhẹ cân và ốm gầy.<ref name="Wagstaff 1999">{{cite web|title=Socioeconomic Inequalities in Child Malnutrition in the Developing World|url=http://ssrn.com/abstract=632505|work=World Bank Policy Research Working Paper No. 2434|accessdate=March 2012|author=Adam Wagstaff|coauthors=Naoke Watanabe|month=November|year=1999}}</ref> Theo một báo cáo năm 2008 ước tính có khoảng 178 triệu trẻ dưới 5 tuổi bị còi, hầu hết trong số đó sống ở vùng hạ Sahara châu Phi; 55 triệu trẻ bị ốm gầy, trong đó 19 triệu trẻ ốm gầy nghiêm trọng.<ref name="Bhutta 2008" /> Đo đạc tăng trưởng của trẻ cung cấp thông tin cần thiết thể hiện suy dinh dưỡng, nhưng chỉ đo đạc cân nặng và chiều cao có thể dẫn đến sự nhầm lẫn trong [[kwashiorkor]] và đánh giá thấp mức độ suy dinh dưỡng nghiêm trọng ở trẻ.<ref name="Nutrition in pediatrics" />
 
===Ở người cao tuổi===
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng suy dinh dưỡng và nhẹ cân là phổ biến ở người cao tuổi là ở các lứa tuổi khác của người trưởng thành.<ref name="quality of life 2011">{{cite journal|last=Kvamme|first=January–Magnus|coauthors=Olsen, Jan Abel, Florholmen, Jon, Jacobsen, Bjarne K.|title=Risk of malnutrition and health-related quality of life in community-living elderly men and women: The Tromsø study|journal=Quality of Life Research|date=NaN undefined NaN|year=2011|volume=20|issue=4|pages=575–582|doi=10.1007/s11136-010-9788-0|pmid=21076942|pmc=3075394}}</ref> Nếu người cao tuổi khỏe và vận động tốt, chỉ quá trình lão hóa không gây ra suy dinh dưỡng.<ref name="Elder Insecurities">{{cite journal|last=Wellman|first=N.S|coauthors=Weddle, D.O, Kranz, S, Brain, C.T|title=Elder Insecurities: Poverty, Hunger, and Malnutrition|journal=Journal of the American Dietetic Association|year=1997|month=October|volume=97|issue=10|pages=S120–S122|doi=10.1016/S0002-8223(97)00744-X|pmid=9336570}}</ref> Tuy vậy, những thay đổi về các thành phần trong cơ thể, chức năng các cơ quan, tiêu thụ năng lượng đầy đủ và ăn thức ăn liên quan đến lão hóa thì có thể góp phần làm suy dinh dưỡng.<ref name="geriatric syndromes" /> Buồn hoặc trầm cảm có thể đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi cảm giác ngon miệng, tiêu hóa, mức năng lượng, cân nặng, và hạnh phúc.<ref name="Elder Insecurities" /> Một nghiên cứu về mối quan hệ giữa suy dinh dưỡng và các bệnh khác ở người cao tuổi cho thấy rằng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi có thể là do rối loạn hệ tiêu hóa và nội tiết, mất cảm giác mùi vị, giảm sự thèm ăn và ăn không đủ dinh dưỡng.<ref name="geriatric syndromes">{{cite journal|last=Saka|first=Bulent|coauthors=Kaya, Omer, Ozturk, Gulistan Bahat, Erten, Nilgun, Karan, M. Akif|title=Malnutrition in the elderly and its relationship with other geriatric syndromes|journal=Clinical Nutrition|year=2010|volume=29|issue=6|pages=745–748|doi=10.1016/j.clnu.2010.04.006|pmid=20627486}}</ref> Sức khỏe răng miệng kém, răng giả không vừa, hoặc gặp các vấn đề về nhai, nuốt có thể làm việc ăn uống khó khăn.<ref name="Elder Insecurities" /> Từ các yếu tố trên, suy dinh dưỡng xảy ra rất dễ đối với người già.<ref name= "Volkert 2002">{{cite journal|last=Volkert|first=Dorothee|title=Malnutrition in the elderly — prevalence, causes and corrective strategies|journal=Clinical Nutrition|year=2002|volume=21|pages=110–112|doi=10.1016/S0261-5614(02)80014-0}}</ref>
 
==Số liệu==
Hàng 122 ⟶ 133:
|----
|}
 
==Ở các nhóm dân số khác nhau==
Thiếu dinh dưỡng là yếu tố quan trọng quyết định đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em, chiếm hơn một phần ba số trẻ tử vong và hơn 10% tổng số gánh nặng bệnh tật trên toàn cầu theo một nghiên cứu năm 2008.<ref name="Black2008">{{cite doi|10.1016/S0140-6736(07)61690-0}}</ref>
===Ở nữ giới===
Các nhà nghiên cứu của trung tâm Nghiên cứu Lương thực Thế giới trong năm 2003 thấy có một khoảng trống giữa các mức độ thiếu dinh dưỡng giữa nam và nữ nhìn chung là nhỏ, nhưng khoảng trống này khác nhau giữa các khu vực và giữa các quốc gia.<ref name="Nube 2003" /> Các nghiên cứu trên quy mô nhỏ này cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nữ cao hơn ở nam ở các quốc gia Nam/Đông Nam Á và châu Mỹ Latinh và thấp hơn ở vùng hạ Sahara châu Phi.<ref name="Nube 2003" /> Các tập dữ liệu ở Ethiopia và Zimbabwe cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nam cao hơn từ 1,5 đến 2 lần so với ở nữ; tuy nhiên, ở Ấn Độ và Pakistan, tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nữ cao hơn ở nam từ 1,5 đến 2 lần. Những thay đổi trong một quốc gia cũng có, với khoảng trống cao thường xuyên giữa các khu vực.<ref name="Nube 2003">{{Cite doi| 10.1080/0301446031000119601}}</ref> Bất bình đẳng giới về dinh dưỡng ở một số quốc gia như Ấn Độ thể hiện trong tất cả các giai đoạn của đời người.<ref name="Women 2008">{{cite journal|last=Dewan|first=Manju|title=Malnutrition in Women|journal=Stud. Home Comm. Sci.|year=2008|volume=2|issue=1|pages=7–10|url=http://www.krepublishers.com/02-Journals/S-HCS/HCS-02-0-000-08-Web/HCS-02-1-001-08-Abst-Text/HCS-02-1-007-08-013-Dewan-M/HCS-02-1-007-08-013-Dewan-M-Tt.pdf|accessdate=March 2012}}</ref>
 
==Ở trẻ em===
WHO ước tính rằng suy dinh dưỡng chiếm 54% trẻ tử vong trên thế giới,<ref name="Nutrition in pediatrics" /> tức khoảng một triệu trẻ.<ref name=ENJM013113 /> Thậm chí độ nhẹ của suy dinh dưỡng tăng cấp đôi nguy cơ tử vong do các bệnh đường hô hấp và tiêu chảy và bệnh sốt rét.<ref name="Nutrition in pediatrics" /> Nguy cơ này tăng mạnh ở những ca suy dinh dưỡng nghiêm trọng.<ref name="Nutrition in pediatrics" /> Có ba biện pháp thường được sử dụng để phát hiện suy dinh dưỡng ở trẻ: thấp còi (cực kỳ thấp so với tuổi của chúng), nhẹ cân (cực kỳ nhẹ cân so với tuổi của chúng), và ốm gầy (cực kỳ nhẹ cân so với chiều cao).<ref name="Wagstaff 1999" /> Các biện pháp xác định suy dinh dưỡng này có quan hệ với nhau, nhưng các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy rằng chỉ có 9% trẻ thể hiện thấp còi, nhẹ cân và ốm gầy.<ref name="Wagstaff 1999">{{cite web|title=Socioeconomic Inequalities in Child Malnutrition in the Developing World|url=http://ssrn.com/abstract=632505|work=World Bank Policy Research Working Paper No. 2434|accessdate=March 2012|author=Adam Wagstaff|coauthors=Naoke Watanabe|month=November|year=1999}}</ref> Theo một báo cáo năm 2008 ước tính có khoảng 178 triệu trẻ dưới 5 tuổi bị còi, hầu hết trong số đó sống ở vùng hạ Sahara châu Phi; 55 triệu trẻ bị ốm gầy, trong đó 19 triệu trẻ ốm gầy nghiêm trọng.<ref name="Bhutta 2008" /> Đo đạc tăng trưởng của trẻ cung cấp thông tin cần thiết thể hiện suy dinh dưỡng, nhưng chỉ đo đạc cân nặng và chiều cao có thể dẫn đến sự nhầm lẫn trong [[kwashiorkor]] và đánh giá thấp mức độ suy dinh dưỡng nghiêm trọng ở trẻ.<ref name="Nutrition in pediatrics" />
 
==Ở người cao tuổi===
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng suy dinh dưỡng và nhẹ cân là phổ biến ở người cao tuổi là ở các lứa tuổi khác của người trưởng thành.<ref name="quality of life 2011">{{cite journal|last=Kvamme|first=January–Magnus|coauthors=Olsen, Jan Abel, Florholmen, Jon, Jacobsen, Bjarne K.|title=Risk of malnutrition and health-related quality of life in community-living elderly men and women: The Tromsø study|journal=Quality of Life Research|date=NaN undefined NaN|year=2011|volume=20|issue=4|pages=575–582|doi=10.1007/s11136-010-9788-0|pmid=21076942|pmc=3075394}}</ref> Nếu người cao tuổi khỏe và vận động tốt, chỉ quá trình lão hóa không gây ra suy dinh dưỡng.<ref name="Elder Insecurities">{{cite journal|last=Wellman|first=N.S|coauthors=Weddle, D.O, Kranz, S, Brain, C.T|title=Elder Insecurities: Poverty, Hunger, and Malnutrition|journal=Journal of the American Dietetic Association|year=1997|month=October|volume=97|issue=10|pages=S120–S122|doi=10.1016/S0002-8223(97)00744-X|pmid=9336570}}</ref> Tuy vậy, những thay đổi về các thành phần trong cơ thể, chức năng các cơ quan, tiêu thụ năng lượng đầy đủ và ăn thức ăn liên quan đến lão hóa thì có thể góp phần làm suy dinh dưỡng.<ref name="geriatric syndromes" /> Buồn hoặc trầm cảm có thể đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi cảm giác ngon miệng, tiêu hóa, mức năng lượng, cân nặng, và hạnh phúc.<ref name="Elder Insecurities" /> Một nghiên cứu về mối quan hệ giữa suy dinh dưỡng và các bệnh khác ở người cao tuổi cho thấy rằng suy dinh dưỡng ở người cao tuổi có thể là do rối loạn hệ tiêu hóa và nội tiết, mất cảm giác mùi vị, giảm sự thèm ăn và ăn không đủ dinh dưỡng.<ref name="geriatric syndromes">{{cite journal|last=Saka|first=Bulent|coauthors=Kaya, Omer, Ozturk, Gulistan Bahat, Erten, Nilgun, Karan, M. Akif|title=Malnutrition in the elderly and its relationship with other geriatric syndromes|journal=Clinical Nutrition|year=2010|volume=29|issue=6|pages=745–748|doi=10.1016/j.clnu.2010.04.006|pmid=20627486}}</ref> Sức khỏe răng miệng kém, răng giả không vừa, hoặc gặp các vấn đề về nhai, nuốt có thể làm việc ăn uống khó khăn.<ref name="Elder Insecurities" /> Từ các yếu tố trên, suy dinh dưỡng xảy ra rất dễ đối với người già.<ref name= "Volkert 2002">{{cite journal|last=Volkert|first=Dorothee|title=Malnutrition in the elderly — prevalence, causes and corrective strategies|journal=Clinical Nutrition|year=2002|volume=21|pages=110–112|doi=10.1016/S0261-5614(02)80014-0}}</ref>
 
== Tham khảo ==
{{tham khảo|2}}