Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n replaced: {{tham khảo}} → {{tham khảo|2}} using AWB
LunarX (thảo luận | đóng góp)
Dòng 21:
 
== Lịch sử giáo hội ==
Người sáng lập và là giáo chủ Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là [[Đức Tông Sư Minh Trí]] tên thật là Nguyễn Văn Bồng sinh năm Bính Tuất (1886) tại xã Tân Mỹ, tổng An Thạnh Thượng, [[sa Đéc (tỉnh)|tỉnh Sa Đéc]], là con thứ bảy của ông Nguyễn Văn Bình và bà Nguyễn Thị An<ref>[http://www.tinhdocusiphathoi.vn/gioi-thieu/luoc-su-duc-tong-su-minh-tri.31.aspx Lược sử Đức Tông Minh Trí]</ref>. Từ thuở còn nhỏ, ông đã nghiên cứu các bài thuốc chữa bệnh cứu người và giác ngộ giáo lý nhà Phật. Với nền tảng sẵn có cộng với tư chất thông tuệ, ông đã mau chóng tinh thông y dược cổ truyền Việt Nam, chủ trương dùng y học dân tộc để giúp đời, hoằng dương Phật pháp.

Đầu năm 1934, ông thành lập Tịnh độ Cư sĩ Phật hội và được giấy phép của chính phủ bảo hộ Pháp ngày 20-2-1934, lúc đó tên chính thức là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội. Tông Sư Minh Trí chuyển tải giáo lý, kinh sách nhà Phật qua ngôn ngữ [[thơ|thơ ca]], văn vần và dưới dạng đối đáp ngắn gọn dễ hiểu, đồng thời hướng mọi người vào hoạt động phước thiện để giúp đỡ người nghèo khó. Hoạt động Phật pháp được gắn với từ thiện nhân đạo, nên số tín đồ ngày một đông.<ref>[http://www.tinhdocusiphathoi.vn/gioi-thieu/luoc-su-truyen-giao-cua-giao-hoi-tinh-do.30.aspx Lược sử truyền giáo của giáo hội Tịnh Độ]</ref>
 
Ngày [[22 tháng 12]] năm [[1953]], chính phủ [[Quốc gia Việt Nam]] xác định tính hợp pháp của Giáo hội bằng Nghị định số 83/MI/DAP với tên gọi đầy đủ như hiện nay là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam <ref name=kqt/>