Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sumer”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 107:
[[File:Stele of Vultures detail 02.jpg|thumb|left|Mảnh [[bia chim kền kền]] của [[Eannatum]]]]
{{Main|Lagash}}
ca.Khoảng 2500–2270 BCtrước Công nguyên.
 
Triều đại của Lagash, dù không có trong danh sách vua, được minh chứng rõ thông qua nhiều công trình quan trọng và nhiều khai quật khảo cổ.
Dòng 114:
 
Sau này, [[Lugal-Zage-Si]], vị vua thầy tu của Umma, đã lật đổ sự thống trị của triều đại Lagash trong vùng, sau đó chinh phục Uruk, biến nó thành thủ đô của mình, và tuyên bố thành lập một đế chế trải dài từ Vịnh Persian tới Địa Trung Hải. Ông là vị vua cuối cùng là người Sumer trước khi vị vua người Semitic [[Sargon của Akkad]] xuất hiện.<ref name="Leick, Gwendolyn 2003"/>
 
===Đế chế Akkad ===
{{Main|Đế chế Akkad}}
Khoảng 2270–2083 trước Công nguyên ([[Biên niên sử Cận Đông cổ đại|biên niên sử rút gọn]])
 
Ngôn ngữ [[Các ngôn ngữ Semitic|Semitic]] Akkad lần đầu được chứng thực trong những cái tên riêng của các vị vua của Kish khoảng năm 2800 trước Công nguyên,<ref>Roux, Georges "Ancient Iraq" (Penguin Harmondsworth)</ref> được lưu giữ trong những danh sách vua sau này. Có những văn bản được viết hoàn toàn bằng tiếng Akkad cổ có niên đại từ khoảng năm 2500 trước Công nguyên. Việc sử dụng tiếng Akkad cổ lên tới đỉnh điểm trong thời cai trị của [[Sargon Vĩ đại]] (khoảng năm 2270–2215 trước Công nguyên), nhưng thậm chí khi ấy hầu hết các văn bản hành chính tiếp tục được viết bằng tiếng Sumer, ngôn ngữ được những người chép thuê sử dụng. Gelb và Westenholz phân biệt ba giai đoạn của tiếng Akkad cổ: giai đoạn thời kỳ tiền Sargonic, giao đoạn đế chế Akkad, và giai đoạn "Phục hưng [[Tân-Sumer]]" tiếp theo nó. Tiếng Akkad và tiếng Sumer cùng tồn tại như những ngôn ngữ địa phương trong khoảng một nghìn năm, nhưng vào khoảng năm 1800 trước Công nguyên, tiếng Sumer trở thành ngôn ngữ văn học nhiều hơn và chủ yếu quen thuộc với các học giả và những người viết thuê. [[Thorkild Jacobsen]] đã cho rằng có ít sự ngắt quãng trong tính tiếp nối lịch sử giữa các giai đoạn tiền và hậu Sargon, và rằng có quá nhiều sự nhấn mạnh vào quan niệm về một sự xung đột "Semitic và Sumer".<ref>''Toward the Image of Tammuz and Other Essays on Mesopotamian History and Culture'' by T. Jacobsen</ref> Tuy nhiên, điều chắc chắn là tiếng Akkad cũng được áp đặt một thời gian ngắn tại các vùng lân cận của [[Elam]] trước đó bị chinh phục bởi Sargon.
 
===Giai đoạn Gutian===
{{Main|Triều đại Gutian của Sumer}}
Khoảng 2083–2050 trước Công nguyên ([[Biên niên sử Cận Đông cổ đại|biên niên sử rút gọn]])
 
====Triều đại thứ hai của Lagash====
[[File:Head Gudea Louvre AO13.jpg|thumb|right|[[Gudea]] của [[Lagash]]]]
{{Main|Lagash}}
Khoảng 2093–2046 trước Công nguyên ([[Biên niên sử Cận Đông cổ đại|biên niên sử rút gọn]])
 
Sau sự suy tàn của Đế chế Akkad dưới bàn tay của người [[Triều đại Gutian của Sumer|Gutian]], một nhà cai trị người Sumer khác, [[Gudea]] của [[Lagash]], nổi lên và tiếp tục thực hiện những ước muốn thần thánh của các vị vua Sargonid. Giống triều đại Lagash trước đó, Gudea và những hậu duệ của ông cũng khuyến khích phát triển nghệ thuật và để lại một số lượng đồ vật khảo cổ lớn.
 
==Xem thêm==