Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tam tỉnh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Nhà Đường: sửa khoảng trắng trước dấu chấm, phẩy, replaced: . → . using AWB
n sửa khoảng trắng trước dấu chấm, phẩy, replaced: ( → ( (4), ) → ) using AWB
Dòng 37:
=== Nhà Tuỳ ===
 
Đến đời Tuỳ thì chính thức bãi bỏ chế độ Lục Quan Cửu Khanh có từ đời Chu, thiết lập chính quyền trung ương theo mô hình tam tỉnh lục bộ, gồm Thương Thư, Môn Hạ, Nội Sử, Bí Thư, Nội Thị năm tỉnh, trong đó Bí Thư tương đương Hàn lâm viện hay Quốc sử quán sau này, hoạt động như quan văn thư riêng cho Hoàng Đế, Nội Thị là cơ quan quản lý nội cung và hoạn quan, cả hai tỉnh không tham chính nên quyền hành chính tập trung vào tay ba tỉnh Thượng thư, Môn hạ, Nội sử. Ba tỉnh hỗ trợ ràng buộc lẫn nhau, trực tiếp chịu trách nhiệm trực tiếp với Hoàng Đế. Trong ba tỉnh, Nội Sử nắm quyền quyết định soạn thảo chính sách, do Nội Sử Lệnh đứng đầu. Môn Hạ nắm quyền giảm sát và thẩm định chính sách, đứng đầu là Nạp Ngôn. Thượng Thư chịu trách nhiệm quản lý các công vụ thường ngày trong triều, đứng đầu là Thượng Thư Lệnh, giúp việc có Tả Hữu Bộc Xạ. Dưới Tam Tỉnh thiết lập sáu Bộ, bao gồm Lại, Lễ, Binh, Độ Chi ( về sau đổi thành Dân Bộ), Đô Quan (sau đổi thành Hình Bộ), Công. Trong triều trường quan Tam Tỉnh tương đương chức Tể tướng, ngang hàng với Tam Công, Tam Sư.<ref>{{chú thích sách|title=Tuỳ Thư, Bách quan chí}}</ref>
 
=== Nhà Đường ===
 
Đến thời nhà Đường đổi Nội Sử thành Trung Thư, đổi Nội Sử lệnh thành Trung Thư lệnh, đổi chức Nạp Ngôn thành Thị trung
Đời Đường chứng kiến quyền lực của Tam Tỉnh lên đến mức cao nhất. Tướng quyền ( tức quyền hành của quan lại
) và quân quyền ( tức quyền lực của hoàng đế ) đối lập và kiềm chế lẫn nhau, loại bỏ tình trạng độc tài làm nâng cao hiệu suất quản lý hành chính. Ban đầu, để kiềm chế tướng quyền, hoàng đế nhà Đường dùng quan viên không có bối cảnh tư lịch sâu làm tể tướng, nắm triều chính để dễ khống chế. Dần dần, quyền tể tướng mất đi, thay vào đó do trưởng quan của ba tỉnh Thượng Thư, Môn Hạ, Trung Thư nắm chức Tả Hữ Bộc Xạ thi hành, từ đó biến Tể Tướng thành một chức hư hàm, không còn quyền lực.
Đời Đường trưởng quan ba tỉnh có phẩm vị rất cao, nên thường không xưng tướng quốc. Thay vào đó, thường lĩnh chức Bình Chương Sự và Đồng trung môn hạ tam phẩm.
 
Dòng 64:
Theo "Tống Hội Yếu" phần "Chức quan", thì Thị trung, Trung thư lệnh làm phó cho Tam sư (tức Thái phó, Thái uý, Thái bảo, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, là chính tể tướng của triều đình. Nhưng trong thực tế thì Thị trung mới là người nắm quyền tể tướng, Trung thư lệnh và Thượng thư lệnh giống nhau, đều là một tước hàm vinh dự, còn gọi là hư hàm. <ref>"Cổ kim nguyên lưu chí luận, hậu tập, quyển 2, Tam Tỉnh: " Quốc sơ tam tỉnh trởng quan đệ vi không danh, duy thị trung chân bái giả", "Thời quốc sơ trưởng quan ba tỉnh đều là chức không, chỉ có Thị trung mới là chức thật</ref>
 
Thời Tống thông thường có hai tướng quốc, ít hơn rất nhiều so với nhà Đường. Cũng có khi chỉ có một tướng hoặc có khi là ba tướng ( tướng ở đây là tướng quốc không phải tướng quân). Nếu có ba tướng cùng lúc thì thủ tướng đứng đầu kiêm Chiêu Văn quán đại học sĩ, thứ tướng kiêm Giám tu Quốc Sử quán, mạt tướng đứng cuối kiêm Tập Hiền điện đại học sĩ. Nếu chỉ có hai tướng thì thủ tướng sẽ kiêm luôn hai chứ Chiêu văn quán đại học sĩ và Giám tu Quốc Sử quán.
 
Thời Tống Thần Tông cái cách lại thể chế, phế bỏ chế độ sai khiển chức. Lấy trưởng quan ba tỉnh làm tể tướng, các quan thì đúng chức mà lam việc, không sai khiến lung tung như trước. Trong thực tế gộp quyền tam tỉnh vào Thượng thư tỉnh, thượng thư tả hữu bộc xạ cùng bái tướng, tả bộc xạ kiêm Môn hạ thị trung, hữu bộc xạ kiêm Trung thư thị lang, là trưởng quan thực tế của hai tỉnh.