Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n using AWB |
n clean up, replaced: , → ,, ( → ( using AWB |
||
Dòng 53:
'''Cửa Tư Hiền'''
Từ nhiều thế kỷ trước, hệ đầm phá chỉ có một cửa duy nhất gọi là cửa Tư Dung (nay là cửa Tư Hiền). Chỉ từ năm 1404, cửa Thuận An mở, hệ đầm phá mới có hai cửa [2]. Trên thực tế
Ngay sau khi cửa Thuận An mở, cửa Tư Hiền bắt đầu có xu thế bị bồi lấp. Vì vậy, năm Quang Thuận thứ 8 (1467), tham nghị Châu Hóa là Đặng Chiêm có dâng sớ xin lấp cửa Eo (Thuận An), giữ cửa Tư Dung (Tư Hiền) và đề nghị đã được chấp nhận [2]. Cho tới năm 1811 (năm Tân Mùi, Gia Long thứ 10), cửa Vinh Hiền mở và cửa Lộc Thủy bị lấp. Như vậy trong khoảng thời gian 1404 - 1811, cửa Vinh Hiền có lẽ đã từng nhiều lần bị đóng và cửa Lộc Thủy đã từng tồn tại. Năm 1823, cửa Vinh Hiền bị lấp và năm 1844 thì cửa Vinh Hiền lại mở. Có lẽ trong khoảng 1931-1952 là thời gian cửa Thuận An bị đập đá đắp chặn, cửa Tư Hiền khá ổn định ở vị trí Lộc Thuỷ. Cho tới năm 1953, cả hai cửa bị lấp, trong đó cửa Vinh Hiền bị lấp cho tới năm 1959 thì mở. Cũng vào năm 1979, cửa Vinh Hiền bị lấp và cửa Lộc Thuỷ được mở do khai đào. Năm 1984, cửa Lộc Thủy bị lấp. Cửa Vinh Hiền mở lại năm 1990 rồi lại bị lấp lại năm 1994 và được gia cố thêm bằng kè đá granit. Đồng thời, cửa Lộc Thuỷ lại được khai đào.
Dòng 105:
10. Shepard F.B.,1964. Submarine geology. Harper and Row Pub. New York, Evanston & London. 557p.
11. Trần Đức Thạnh, 1985. Cửa Thuận An và Tư Hiền (
12. Trần Đức Thạnh, Trần Đình Lân và Nguyễn Hữu Cử, 1995. Về hiện tượng bồi lấp cửa Tư Hiền. Tạp chí Hoạt động khoa học số 9. Hà Nội. Tr.20-23.
|