Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bangladesh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 72:
 
[[Tập tin:Map Bangladesh RoadRail.png|nhỏ|trái|150px|Bangladesh - có thể hiện hệ thống đường bộ và đường sắt]]
Năm 1970, [[Bão Bhola 1970|bão Bhola]]<ref name="IWMAMS">{{cite web |url=http://wwwjournals.iwmbdametsoc.org/htmldoi/PUBSpdf/publications10.1175/P0241520-0477%281971%29052%3C0438%3ATDTCIH%3E2.PDF0.CO%3B2 |title=CyclonicThe Stormdeadliest Surgetropical Modellingcyclone forin Designhistory? of Coastal Polder|author=KabirFrank, M.Neil M.|coauthors=Saha B. C.; HyeHusain, JS. MA. A.|accessdateyear=2007-04-151971 |month=June |format=PDF |publisher=[[InstituteAmerican ofMeteorological Water ModellingSociety]] |archiveurl work=Bulletin http://web.archive.org/web/20070622000638/http://www.iwmbd.org/html/PUBS/publications/P024.PDFof |archivedatethe =American 2007Meteorological Society |accessdate=2012-0603-2215}}</ref> đã tàn phá vùng bờ biển Đông Pakistan, chính phủ trung ương phản ứng chậm chạp. Sự tức giận của người dân Bengal càng gia tăng khi Sheikh Mujibur Rahman cùng với [[Liên đoàn Awami]] của mình giành đa số tại Nghị viện trong cuộc bầu cử năm 1970, (Baxter<ref name=baxter/>, trang 78—79) bị ngăn cản nhậm chức. Sau những cuộc đàm phán thất bại với Mujib, Tổng thống [[Yahya Khan]] đã bắt ông trong đêm ngày [[25 tháng 3]] năm [[1971]], và tiến hành [[Chiến dịch Đèn pha]]<ref name=salik>{{Chú thích sách | last = Salik | first = Siddiq | year = 1978 | title = Witness to Surrender | publisher = Nhà in Đại học Oxford | id = ISBN 0-19-577264-4}}</ref>, một cuộc tấn công nhằm duy trì quyền kiểm soát quân sự với phía Đông Pakistan. Những biện pháp của Yahya gây đổ máu rất lớn, và bạo lực của cuộc chiến dẫn tới cái chết của nhiều dân thường<ref name=gendercide>{{Chú thích web | url = http://www.gendercide.org/case_bangladesh.html | title = Genocide in Bangladesh, 1971 | publisher = Gendercide Watch}}</ref>. Các mục tiêu chủ yếu là tầng lớp trí thức và những người theo đạo Hindu, với khoảng 10 triệu [[tị nạn|người tị nạn]] phải bỏ chạy sang quốc gia láng giềng là Ấn Độ (LaPorte<ref name=laporte>{{chú thích tạp chí | last = LaPorte | first = R | year = 1972 | title = Pakistan in 1971: The Disintegration of a Nation | journal = Asian Survey | volume = 12(2) | pages = 97-108}}</ref>, trang 103). Những con số ước tính về số người bị thảm sát lên tới từ hàng trăm nghìn tới 3 triệu người<ref name=white>{{Chú thích sách | last = White | first = M | month = 11 | year = 2005 | title = Death Tolls for the Major Wars and Atrocities of the Twentieth Century | url = http://users.erols.com/mwhite28/warstat2.htm#Bangladesh}}</ref><ref name=virtualbd>{{Chú thích web | publisher = VirtualBangladesh.com | url = http://www.virtualbangladesh.com/history/holocaust.html | title = The Bangladeshi holocaust}}</ref>. Đa số lãnh đạo Liên đoàn Awami phải bỏ trốn và lập ra một chính phủ hải ngoại tại [[Kolkata|Calcutta]], Ấn Độ. [[Chiến tranh giải phóng Bangladesh]] kéo dài 9 tháng. [[Chiến tranh du kích|Du kích]] [[Mukti Bahini]] và quân chính quy Bengal nhận được sự hỗ trợ từ phía [[Các lực lượng vũ trang Ấn Độ]] tháng 12, 1971. Dưới sự chỉ huy của [[Jagjit Singh Aurora|Trung tướng J.S. Arora]], [[lực lượng Vũ trang Ấn Độ|quân đội Ấn Độ]] đã giành được thắng lợi quyết định trước Pakistan ngày [[16 tháng 12]] năm [[1971]], bắt 90.000 [[tù binh]]<ref name=burke>{{chú thích tạp chí | last = Burke | first = S | year = 1973 | title = The Postwar Diplomacy of the Indo-Pakistani War of 1971 | journal = Asian Survey | volume = 13 | issue = 11 | pages = 1036-1049}}</ref> trong cuộc [[chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971]].
 
Sau khi giành được độc lập, Bangladesh trở thành một nhà nước dân chủ nghị viện, Mujib làm Thủ tướng. Trong cuộc bầu cử nghị viện năm 1973, Liên đoàn Awami giành được đa số tuyệt đối. Một nạn đói toàn quốc diễn ra trong năm 1973 và 1974<ref name=sen/> và đầu năm 1975, Mujib đưa ra sáng kiến một đảng xã hội chủ nghĩa cầm quyền với tổ chức [[BAKSAL]] mới được thành lập của ông. Ngày [[15 tháng 8]] năm [[1975]], Mujib và gia đình bị các sĩ quan trung cấp ám sát<ref name=mascarenhas>{{Chú thích sách | last = Mascarenhas | first = A | year = 1986 | title = Bangladesh: A Legacy of Blood | publisher = Hodder & Stoughton, London | id = ISBN 0-340-39420-X}}</ref>. Một loạt các cuộc đảo chính và phản đảo chính đẫm máu diễn ra trong ba tháng tiếp theo, lên tới cực điểm khi tướng [[Ziaur Rahman]], người tái lập chế độc chính trị đa đảng và đồng thời là người thành lập [[đảng Quốc gia Bangladesh]] (BNP), lên nắm quyền. Thời kỳ cầm quyền của Zia kết thúc khi ông bị ám sát năm 1981 bởi những sĩ quan không quân trong quân đội<ref name=mascarenhas/>. Người cầm quyền chủ yếu tiếp sau của Bangladesh là tướng [[Hossain Mohammad Ershad]], người giành được quyền lực sau một cuộc đảo chính đẫm máu năm 1982 và tại vị đến năm 1990, khi ông bị gạt ra rìa sau một cuộc nổi dậy của dân chúng. Từ đó, Bangladesh chuyển thành một chế độ dân chủ nghị viện. Vợ góa của Zia, [[Khaleda Zia]], lãnh đạo [[Đảng Quốc gia Bangladesh|BNP]] giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1991 và 2001 và trở thành Thủ tướng từ năm 1991 tới 1996 và một lần nữa từ năm 2001 tới hiện tại. [[Sheikh Hasina]], một trong những người con gái còn sống của Mujib và là lãnh đạo Liên đoàn Awami, nắm quyền từ năm 1996 đến 2001. Dù Bangladesh nằm dưới sự lãnh đạo của hai nhà nữ chính trị khác nhau nhưng nước này vẫn ở tình trạng tham nhũng tràn lan<ref>[http://news.bbc.co.uk/2/hi/south_asia/4353334.stm Bangladesh tops most corrupt list] - [[BBC]]</ref>, hỗn loạn và bạo lực chính trị.