Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kurt Georg Kiesinger”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: . → ., : → : using AWB
Dòng 25:
}}
[[Hình:Rittner Kurt Georg Kiesinger 1976.jpg|nhỏ|Kurt Georg Kiesinger, <br />Kanzlergalerie Berlin]]
'''Kurt Georg Kiesinger''' (Sinh [[6 tháng 4]] năm [[1904]] - mất [[9 tháng 3]] năm [[1988]]) là một chính trị gia bảo thủ [[Đức]], bang trưởng [[Baden-Württemberg]] từ 1958 tới 1966, [[thủ tướng Tây Đức]] từ [[1 tháng 12]] năm [[1966]] tới [[21 tháng 10]] năm [[1969]], đảng trưởng CDU từ 1967 tới 1971 .
Kiesinger là thủ tướng đầu tiên của liên hiệp 2 đảng lớn nhất ([[Große Koalition]]).
== Tiểu sử ==
Dòng 33:
 
=== Đảng viên đảng Quốc xã Đức===
Vào tháng hai 1933, vài tuần sau khi Hitler được phong làm Thủ tướng Đức,<ref>In seiner Autobiografie nennt Kiesinger als Datum ''Ende Februar 1933, noch vor dem [[Reichstagsbrand]]'', als er sich von einem seiner Studenten bei dessen NSDAP – Ortsgruppe anmelden ließ (Kurt Georg Kiesinger: ''Dunkle und helle Jahre: Erinnerungen 1904–1958''. Stuttgart 1989, S. 168)</ref> ông trở thành đảng viên đảng Quốc xã Đức, với đảng số 2633930.<ref>Das ''Handbuch des Auswärtigen Dienstes'', das im Wesentlichen auf den Akten der Personalabteilung des AA beruht, die „seit 1933 die Mitgliedschaft in der NSDAP registriert“ hatte (Maria Keipert (Red.): ''Biographisches Handbuch des deutschen Auswärtigen Dienstes 1871–1945'', Paderborn u. a. 2005, Band 1, S. XVI), nennt im Lemma ''Kiesinger, Kurt-Georg'' den 1. Mai 1933 als Eintrittsdatum (ebd. Bd. 2, S. 526f). Die Abweichung zur ungefähren Angabe in der Autobiographie ist in der Kiesinger-Literatur nicht thematisiert. Die Mitgliedsnummer wurde als Titel einer Schrift von [[Beate Klarsfeld]] in der politischen Auseinandersetzung öffentlich: ''Die Geschichte des PG 2 633 930 Kiesinger. Dokumentation mit einem Vorwort von [[Heinrich Böll]]'', Darmstadt : Melzer, 1969</ref> Tuy nhiên ông không làm việc cho nhà nước mà chỉ hành nghề luật sư. Mãi đến năm 1940 khi được giấy gọi nhập ngũ, ông mới quyết định nhận một chức vụ trong bộ Ngoại giao để khỏi phải đi lính. Kiesinger là đảng viên cho tới 1945.
Sau này ông bị chỉ trích nặng nề vì đã đồng thuận với việc nắm quyền của đảng Quốc xã, cũng như đã làm việc cho chính quyền này từ năm 1940.
Chính ông tự cho là việc ủng hộ đảng Quốc xã không phải vì lòng tin, hay vì theo chủ nghĩa cơ hội. Những mục đich quan trọng của phong trào này đối với ông là không có gì đáng chê trách. Ông tuy nhiên không thù ghét người Do thái, cũng không cho đó là những hiểm nguy cho đất nước như quan điểm của phong trào này.<ref name="diezeit">Koerfer, Daniel (2006) [http://www.zeit.de/2006/39/P-Kiesinger?page=all Der Fall Kiesinger]. In: Die Zeit, Nr.39</ref>