Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Lombard”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n tên bài chính, replaced: Sicily → Sicilia using AWB
n clean up, replaced: ( → ( (2) using AWB
Dòng 11:
[[Origo Gentis Langobardorum]] kể về câu chuyện của một bộ lạc nhỏ được gọi là ''Winnili''<ref name="ReferenceA"/> ở miền nam [[Scandinavia]] ]<ref name="dick">Harrison, D. & Svensson, K. (2007). ''Vikingaliv'' Fälth & Hässler, Värnamo. 978-91-27-35725-9 p. 74</ref> (Scadanan) (tác phẩm [[Codex Gothanus]] viết rằng đầu tiên người ''Winnili'' cư ngụ gần một con sông được gọi là Vindilicus trên ranh giới tận cùng [[Gallia|Gaul]].) <ref>CG, II.</ref> người Winnili được chia thành ba nhóm và một phần rời bỏ quê hương của họ để tìm kiếm vùng đất mới. Lý do cho cuộc di cư có thể là do gia tăng dân số.<ref>Menghin, 13.</ref> Những người ra đi được dẫn đầu bởi anh em Ybor và Aio cùng mẹ của họ Gambara<ref>Priester, 16. Grimm, ''Deutsche Mythologie'', I, 336. Old Germanic for "[[Strenuus]]", "[[Sibyl]]".</ref> và họ đã đặt chân đến vùng đất Scoringa, có lẽ là bờ biển Baltic<ref>Priester, 16</ref> hoặc [[Bardengau]] bên bờ sông Elbe.<ref>Hammerstein-Loxton, 56.</ref> Scoringa được cai trị bởi [[người Vandal]], và các vị tù trưởng của họ, anh em Ambri và Assi, những người bắt người Winnili phải lựa chọn giữa cống nạp hoặc chiến tranh.
 
Người Winnili đều là chàng tri trẻ và dũng cảm, họ từ chối cống nạp và nói " tốt hơn hết là hãy bảo vệ tự do bằng đôi tay còn hơn là làm vấy bẩn nó bằng cách nộp cống".<ref name="PD, VII">PD, VII.</ref> Người Vandal đã chuẩn bị cho chiến tranh và đã thỉnh cầu thần Godan ([[thần Odin]]<ref name="dick"/>), người đã trả lời rằng ông sẽ ban chiến thắng cho những người mà ông nhìn thấy đầu tiên vào lúc bình minh.<ref name="PD, VIII">PD, VIII.</ref> Người Winnili có ít người hơn <ref name="PD, VII"/> và Gambara đã cầu xin sự giúp đỡ từ Frea ( nữ thần [[Frigg]]<ref name="dick"/>), người đã khuyên rằng tất cả phụ nữ Winnili nên buộc tóc của họ ở phía trước của khuôn mặt của họ khiến nó giống như râu và hành quân với những người chồng của họ. Vì vậy, khi mà Godan phát hiện người Winnili đến đầu tiên, và hỏi, "những kẻ râu dài này là ai?" và Frea trả lời, "chúa tể của ta, người hãy ban cho họ tên, và bây giờ người cũng hãy ban cho họ chiến thắng".<ref>OGL, appendix 11.</ref> Từ thời điểm đó trở đi, người Winnili đã được biết đến như là người Langobards (Tiếng Latinh và Ý hóa là Lombard).
 
Khi Paul người trợ tế viết tác phẩm Historia giữa năm 787 và 796, ông là một tu sĩ Công giáo. Ông nghĩ rằng những câu chuyện đa thần giáo về người dân của mình thật "ngớ ngẩn" và "nực cười".<ref name="PD, VIII"/><ref>Priester, 17</ref> Paul giải thích rằng tên "Langobard" đến từ chiều dài bộ râu của họ<ref name="Pohl and Erhart. Nedoma, 449–445">Pohl and Erhart. Nedoma, 449–445.</ref>. Một giả thuyết hiện đại cho rằng cái tên "Langobard "xuất phát từ Langbarðr, một cái tên gọi khác của Odin <ref name="Pohl and Erhart. Nedoma, 449–445"/>.
 
=== Bằng chứng khảo cổ học và những cuộc di cư ===
Kết hợp từ những ghi chép của [[Strabo]] (20 CN) và [[Tacitus]] ( 117 CN), ta biết được người Lombard cư ngụ ở gần cửa [[elbe|sông Elbe]] ngay sau khi bắt đầu kỷ nguyên Kitô giáo, bên cạnh [[người Chauci]]<ref name="Menghin, 15">Menghin, 15.</ref> Strabo cho rằng người Lombard cư ngụ cả hai bên bở của sông Elbe<ref>Strabo, VII, 1, 3. Menghin, 15.</ref> Nhà khảo cổ học người Đức Willi Wegewitz đã xác định được một số vị trí mai táng [[thời kì đồ sắt]] ở hạ lưu Elbe như ''Langobardic''.<ref>Wegewitz, ''Das langobardische Brandgräberfeld von Putensen, Kreis Harburg'' (1972), 1–29. ''Problemi della civilita e dell'economia Longobarda'', Milan (1964), 19ff.</ref> Những bằng chứng khảo cổ học cho thấy rằng người Lombard là những cư dân canh tác nông nghiệp.<ref>Priester, 18.</ref>
 
Những ghi chép đề cập đến người Lombard đầu tiên là vào giữa năm 9CN và năm 16 CN, khi mà sử quan La Mã [[Velleius Paterculus]], người đã tham gia một cuộc viễn chinh của người La Mã với chức vụ thái thú kỵ binh.<ref name="Menghin, 15"/> Paterculus mô tả người Lombard là "hung tợn hơn những người Đức man rợ bình thường"<ref>Velleius, Hist. Rom. II, 106. Schmidt, 5.</ref>