Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Xuân Huy”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: Việt hóa và tinh chỉnh
Dòng 6:
Ông sinh ngày [[28 tháng 5]] năm 1900 năm tại làng Thịnh Mỹ, xã Cao Xá, phủ Diễn Châu, tỉnh [[Nghệ An]], trong một gia đình dòng dõi khoa bảng danh gia. Ông nội ông là [[Cao Xuân Dục]]. Cha ông là [[Cao Xuân Tiếu]] (1865-1939), đậu phó bảng khoa thi 1895, giữ chức [[thượng thư]], Hiệp biện đại học sĩ kiêm Tổng tài Quốc sử quán triều [[nhà Nguyễn]].
 
Năm 1906, ông bắt đầu học [[chữ Hán]] với thầy của gia đình và được ông nội (là cụ Cao Xuân Dục, khi đấy là Tổng tài Quốc sử quán) rèn cặp. Năm 1915, ông [[thi Hương|thi hương]] tại trường thi Nghệ An. Sau đó, ông đến Huế theo học bậc [[Thành chung]] và tốt nghiệp năm 1922. Sau đó, ông theo học trường [[Cao đẳng sư phạm Đông Dương]] và tốt nghiệp năm 1925. Sau khi tốt nghiệp, ông bước vào cuộc đời dạy học trong 55 năm chỉ gián đoạn chút ít.
 
Cũng trong năm 1925, cụ [[Phan Bội Châu]] bị thực dân [[Pháp]] bắt giam. Nhiều phong trào đấu tranh chính trị đòi thả cụ Phan. Vốn sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống yêu nước và chống Pháp, ông cũng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng. Khi đó, ông đang dạy ở Trường Quốc học Huế. Năm 1926, ông gia nhập [[Tân Việt Cách mạng đảng]].
Dòng 37:
* Nghiên cứu về Nhận Thức Luận
* Động và Tĩnh trong Cấu Trúc Luận
* Tham gia nghiên cứu và hiệu đính bản dịch ''Vân đài loại ngữ'' của [[Lê Quý Đôn]], ''Nguồn gốc các loài'' của [[Charles Darwin]], [[Đông Chu liệt quốc|Đông Chu Liệt Quốc]] của [[Phan Kế Bính]], ''Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh'' của [[Ngô Thì Nhậm]].
 
==Những nhận định về ông==