n
clean up
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Fix URL prefix |
n clean up |
||
Dòng 55:
[[Nhà Tùy]] tái thống nhất Trung Quốc và xây dựng con kênh lớn [[Đại Vận Hà]] nối [[Hàng Châu]] với [[bình nguyên Hoa Bắc]], mang lại cho Chiết Giang một đường kết nối quan trọng với các trung tâm của văn minh Trung Hoa. Thời [[nhà Đường]] là thời hoàng kim của Trung Hoa. Khi đó, Chiết Giang là một phần của [[Giang Nam Đông đạo]] (江南東道) và bắt đầu phát triển thịnh vượng. Về sau, khi nhà Đường sụp đổ, đa phần lãnh thổ của [[ngô Việt|nước Ngô Việt]] thời [[Ngũ Đại Thập Quốc]] là tại Chiết Giang.
[[Nhà Tống|Bắc Tống]] tái thống nhất Trung Quốc vào khoảng năm [[960]]. Trong thời nhà Tống, sự giàu có thịnh vượng của miền Nam Trung Quốc bắt đầu vượt miền Bắc Trung Quốc. Sau khi miền Bắc bị người [[Nữ Chân]] xâm chiếm vào năm [[1127]], Chiết Giang tiến vào thời cực thịnh: [[Hàng Châu]] trở thành kinh đô của [[Nhà Tống|Nam Tống]]. Nổi tiếng vì vẻ đẹp và sự giàu có, thành phố này có thể đã là thành phố lớn nhất thế giới vào thời đó.<ref>{{chú thích web|last=Rosenberg|first=Matt T.|title=Largest Cities Through History|url=http://geography.about.com/library/weekly/aa011201a.htm|publisher=About.com Geography|accessdate=2012-11-7}}</ref> Kể từ đó đến nay, trong văn hóa Trung Hoa, cùng với vùng Nam [[Giang Tô]] lân cận, vùng Bắc Chiết Giang đã đồng nghĩa với sự xa hoa và giàu có. Chiến thắng của quân [[đế quốc Mông Cổ|Mông Cổ]] và việc thành lập [[nhà Nguyên]] năm [[1279]] đã kết thúc vai trò quan trọng về chính trị của Hàng Châu, tuy nhiên, thành phố này vẫn tiếp tục phát triển thịnh vượng; [[Marco Polo]] đã đến thăm Hàng Châu, ông gọi thành phố này là "Kinsay" và gọi đây là "thành phố sang trọng và đẹp đẽ nhất" trên thế giới.<ref>{{chú thích web|last=Halsall|first=Paul|title=Medieval Sourcebook: Marco Polo: The Glories Of Kinsay [Hangchow] (c. 1300)|url=http://www.fordham.edu/halsall/source/polo-kinsay.asp|publisher=Fordham University|accessdate=2012-11-7}}</ref>
[[Tập tin:Ceramic planter from the Ming Dynasty.jpg|nhỏ|trái|240px|Đồ sứ ba chân thời [[nhà Minh]] phát hiện tại tỉnh Chiết Giang. Hiện được trưng bày tại [[viện Smithsonian]] ở [[Washington, D.C.]]]]
Dòng 64:
=== Thời Thanh ===
[[Tập tin:Second taking of Chusan.jpg|nhỏ|270px|phải|Quân Anh chiếm thành Định Hải ở [[quần đảo Chu Sơn]] năm 1841]]
Sau khi người Mãn Châu nhập quan, lập nên [[nhà Thanh]], triều đình mới đã đổi Chiết Giang thừa tuyên bố chánh sứ ti thành Chiết Giang tỉnh, về quân sự do [[tổng đốc Mân Chiết]] quản lý. Do Chiết Giang tích cự phản kháng quân Thanh, triều đình Mãn Thanh đã có các chính sách thẩm tra dã man đối với văn nhân Giang Nam, như [[Văn tự ngục]] (文字獄), [[Minh sử án]] (明史案). Năm [[Đạo Quang (niên hiệu)|Đạo Quang]] thứ 20 (1840), quân Anh pháo kích thành Định Hải, [[Chiến tranh Nha phiến]] chính thức bùng phát. Sau khi thành bị bao vây, [[tổng binh]] Định Hải trấn Cát Vân Phi (葛云飞), tổng binh Thọ Xuân trấn [[Vương Tích Bằng]] (王锡朋), tổng binh Xử Châu trấn Trịnh Quốc Hồng (郑国鸿) đã suất quân để kháng cự song đã thiệt mạng trong trận chiến. Căn cứ theo [[Điều ước Nam Kinh]] ký kết sau chiến tranh, Ninh Ba trở thành một 5 cảng thông thương với ngoại quốc đầu tiên.
Năm 1861, quân [[Thái Bình Thiên Quốc]] tiến từ Giang Tây đến Chiết Giang, do là nơi xuất thân của nhiều quan viên và thân sĩ Trung Quốc, Giang Chiết là vùng cư dân chịu ảnh hưởng mạnh của [[Nho giáo]] nên các dân đoàn địa phương đã liên tục cùng quân Thái Bình tác chiến, vì thế có đến trên một nửa cư dân Chiết Giang đã thiệt mạng trong cuộc chiến này.<ref>Theo "Trung Quốc Nhân khẩu sử" thống kê về số người tử vong tại 9 tỉnh phương Nam, nhân khẩu Chiết Giang trước chiến tranh là 30,27 triệu, số người tỷ vong thời chiến là 16,30 triệu người, tỷ lệ lên tới 53,8%</ref> Đặc biệt, ở các khu vực phía tây như tại ba huyện Vũ Khang, Hiếu Phong và An Cát thuộc hai phủ Hồ Châu, Hàng Châu, tổn thất nhân khẩu là trên 96%.<ref>《太平天国战争对浙江人口的影响》,《复旦学报》2000年第五期</ref> Cuộc chiến khốc liệt này đã khiến một số lượng lớn nhân sĩ Giang Chiết đến tị nạn tại Thượng Hải (tô giới ngoại quốc), đóng một vai trò quyết định cho sự phát triển của Thượng Hải. Sau chiến tranh, [[Tương quân]] nhập Chiết Giang để đánh Thái Bình Thiên Quốc trước kia khuếch trương thế lực và sau năm 1861, nhiều tuần phủ Chiết Giang do Tương quân độc quyền nắm giữ. Tuy nhiên, sau [[Dương Nãi Vũ và Tiểu Bạch Thái|án Cát Tất thị]], lực lượng Tương quân đã suy yếu rất nhiều. Trong các sự kiện [[Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn]] và [[Liên quân tám nước|Bát quốc liên quân]] xâm lược, tỉnh Chiết Giang tham gia [[Đông Nam hỗ bảo]], tránh được chiến tranh xâm lược.
Dòng 92:
=== Sông hồ ===
Trong nhiều năm, bình quân tổng lượng tài nguyên nước của tỉnh là 93,7 tỷ m³, xét trên một đơn vị diện tích thì xếp thứ 4 toàn quốc, song do tỉnh có mật độ dân số cao, bình quân tài nguyên nước chỉ là 2.008 m³/người, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước, thấp nhất là bình quân tài nguyên nước trên người tại quần đảo Chu Sơn, với chỉ 600 m³/người.<ref>{{chú thích web|title=浙江省水资源概况:七山一水两分田|url=http://zjnews.zjol.com.cn/05zjnews/system/2007/03/19/008261194.shtml|publisher=浙江在线新闻网站|accessdate=2012-11-8}}</ref>
Hệ thống các sông tại tỉnh Chiết Giang có đặc điểm đại bộ phận là các sông ngắn, có lưu vực hẹp. diện tích sông và hồ chiếm 6,4% tổng diện tích của tỉnh. Do Chiết Giang có địa thế cao ở tây nam và thấp ở đông bắc, đa số các sông bắt nguồn từ tây bộ hoặc trung bộ, chảy theo hướng đông hoặc đông bắc rồi đổ vào [[biển Hoa Đông]].
Sông dài nhất và có diện tích lưu vực lớn nhất tại Chiết Giang là sông [[Tiền Đường]]; dòng đầu nguồn chính là [[sông Tân An|Tân An]], bắt nguồn từ khu vực [[Huy Châu]] của tỉnh An Huy; dòng đầu nguồn phía nam là sông Lan, bắt nguồn từ huyện [[Khai Hóa]]. Hai dòng đầu nguồn này đến trấn Mai Thành của [[Kiến Đức, Hàng Châu|Kiến Đức]] thì hợp dòng rồi đổ vào [[vịnh Hàng Châu]]. Hệ thống chi lưu của sông Tiền Đường còn có sông Kim Hoa, sông Phân Thủy, sông Phổ Dương, sông Tào Nga. Hiện tượng [[thủy triều]] trên sông Tiền Đường là một cảnh quan trứ danh, cả [[thiên hạ]] biết đến. Ở bắc bộ Chiết Giang, [[sông Điều]] (苕溪) đổ nước vào [[Thái Hồ]], là một bộ phận của lưu vực Trường Giang. Với 5 sông lớn đổ trực tiếp ra biển Hoa Đông là sông Âu, sông Linh, sông Dũng, sông Phi Vân và sông Ngao, chúng được gọi là "Chiết Giang thất đại thủy hệ". Sông Tào Nga trước đây được xem là một lưu vực sông độc lập đổ thẳng ra biển song hiện nay được xem là một chi lưu lớn cuối cùng của sông Tiền Đường, do đó đôi khi người ta đưa sông Tào Nga vào thất đại thủy hệ, trở thành Chiết Giang bát đại thủy hệ.<ref>{{chú thích web|title=浙江省整治境内八大水系|url=http://news.cnnb.com.cn/system/2006/01/08/005062476.shtml|publisher=中国宁波网|accessdate=2012-11-8}}</ref>
Thái Hồ nằm trên ranh giới giữa hai tỉnh Chiết Giang và Giang Tô, khu Ngô Hưng và huyện [[Trường Hưng (huyện)|Trường Hưng]] của Hồ Châu nằm ở bờ nam của Thái Hồ. Ngoài Tây Hồ, trên địa phận Chiết Giang còn có [[Tây Hồ (hồ Hàng Châu)|Tây Hồ]], [[hồ Đông Tiền]] (东钱湖) cùng trên 30 hồ có dung tích trên 1 triệu m³. Hồ Đông Tiền là hồ tự nhiên lớn nhất tại Ninh Ba, diện tích bề mặt là 19,89 km². Các hồ nổi tiếng là Tây Hồ của Hàng Châu, [[Nam Hồ (Gia Hưng)|Nam Hồ]] tại Gia Hưng, [[Đông Hồ (Thiệu Hưng)|Đông Hồ]] tại Thiệu Hưng. Hồ nhân tạo lớn nhất Chiết Giang là [[hồ Thiên Đảo]] (千岛湖), tức hồ chứa sông Tân An, diện tích mặt hồ là 573 km².
Dòng 109:
Chiết Giang nằm ở vùng chuyển tiếp khí hậu giữa [[lục địa Á-Âu|đại lục Âu-Á]] và vùng Tây Bắc [[Thái Bình Dương]], có khí hậu cận nhiệt đới gió mùa điển hình, bốn mùa rõ rệt. Mùa xuân từ tháng 3 đến tháng 5, mưa nhiều và khí hậu cũng biến đổi lớn; mùa hè từ tháng 6 đến tháng 9, mưa kéo dài và nhiệt độ rất nóng, ẩm; mùa thu có khí hậu ấm áp và khô; mùa đông không kéo dài song nhiệt độ lạnh (nam bộ Ôn Châu có mùa đông ấm). Nhiệt độ trung bình năm là 15°C-18°C, nhiệt độ trung bình tháng 1 (tháng lạnh nhất) là 2°C-8°C và có thể xuống thấp đến -2,2°C đến -17,4°C, nhiệt độ trung bình tháng 7 (tháng nóng nhất) là 27°C-30°C và có thể lên cao đến 33°C-43°C.
Do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Á, nên hướng gió và lượng mưa có sự thay đổi đáng kể giữa mùa hè và mùa đông. Lượng [[giáng thủy]] hàng năm là 980–2000 mm, số giờ nắng trung bình năm là 1.710-2.100 giờ. Vào đầu mùa hè có lượng mưa lớn, thường gọi là "Mai vũ quý tiết" (梅雨季节, mùa mưa gió mùa Đông Á), song tỉnh thường chịu ảnh hưởng của các cơn bão nhiệt đới từ Thái Bình Dương vào cuối hè. Vào mùa hè, gió đông nam chiếm ưu thế, các vùng núi phía đông [[núi Quát Thương]] (括苍山), [[núi Nhạn Đãng]] (雁荡山) và [[núi Tứ Minh]] (四明山) có lượng mưa lớn, vùng hải đảo và khu vực trung bộ Chiết Giang có lượng mưa thấp hơn tương đối, nhiệt độ ở vùng bồn địa Kim-Cù tại trung bộ của tỉnh rất cao, các vùng xung quanh thấp hơn rõ rệt. Vào mùa đông, hướng gió lại chuyển thành hướng tây bắc, nhiệt độ cao dần từ bắc xuống nam.
Do nằm trên vùng chuyển tiếp giữa vùng có vĩ độ thấp và trung bình, nằm ở ven biển, kết hợp với việc có địa hình nhấp nhô lớn, lại phải chịu ảnh hưởng kép của gió mùa nhiệt đới và khối khí lạnh lục địa, Chiết Giang là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của các cơn bão tại Trung Quốc.<ref>[http://www.zj.gov.cn/gb/zjnew/node3/node6/node7/node26/index.html 浙江气候,浙江省人民政府网]</ref> Tuy nhiên, tấn suất các thảm họa tự nhiên diễn ra thì nhỏ hơn.
Dòng 115:
=== Khoáng sản ===
[[Tập tin:East China sea digging map.svg|nhỏ|phải|Vị trí các mỏ dầu khí (chấm đỏ) trên biển Hoa Đông nằm gần vùng biển tranh chấp]]
Chiết Giang là một tỉnh nhỏ về tài nguyên [[khoáng sản]], chủ yếu là khoáng sản [[phi kim]]. Chiết Giang đứng đầu cả nước về trữ lượng than [[antraxit]], [[anulit]], [[pirofilit]], [[đá tro núi lửa]] dùng để làm [[xi măng]]; đứng thứ hai cả nước về trữ lượng [[fluorit]]. Anulit tại huyện [[Thương Nam, Ôn Châu|Thương Nam]] có trữ lượng rất phong phú, trữ lượng [[Kali alum]] (''phèn chua'') tại khu khai khoáng Phàn Sơn ở phía nam Thương Nam có trữ lượng chiếm tới 80% của cả nước, chiếm 60% trữ lượng toàn thế giới, được gọi là "thủ đô phèn thế giới".<ref>{{chú thích web|title=温州要金山银山更要绿水青山|url=http://www.zj.xinhuanet.com/special/2005-08/19/content_4927194.htm|publisher=新华网|accessdate=2012-11-8}}</ref> Chiết Giang có trữ lượng đá vôi rất phong phú, đá vôi là nguyên liệu chủ yếu để sản xuất xi măng, sản lượng xi măng của Chiết Giang chiếm 10% sản lượng toàn quốc. [[Tấn Văn]] tại Chiết Giang là khu vực sản xuất [[zeolit]] trọng yếu của Trung Quốc. Chiết Giang thiếu các tài nguyên than đá và sắt; than đá chủ yếu được khai thác ở mỏ than Trường Quảng ở tây bắc của huyện Trường Hưng, tức nơi giáp với tỉnh An Huy; ở huyện Thiệu Hưng có mỏ sắt Li Chử (漓渚), song sản lượng không lớn. Chiết Giang là tỉnh giàu tài nguyên khoáng sản hải dương, thềm lục địa tại biển Hoa Đông có triển vọng phát triển lĩnh vực khai thác [[dầu mỏ]] và [[khí thiên nhiên]]; hiện đã xây dựng các dàn khoan tại [[mỏ dầu khí Xuân Hiểu]] (春晓油气田), [[mỏ dầu khí Bình Hồ|Bình Hồ]] (平湖油气田), [[mỏ khí Thiên Ngoại Thiên|Thiên Ngoại Thiên]] (天外天油气田), tuy nhiên việc phát triển ngành dầu khí lại chịu ảnh hưởng từ việc tranh chấp vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Nhật Bản.<ref>{{chú thích web|title=外交部发言人秦刚就所谓中方“单方面”开发 “天外天”油气田问题答记者问|url=http://www.gov.cn/xwfb/2009-01/04/content_1195263.htm|publisher=中国政府网|accessdate=2012-11-8}}</ref><ref>{{chú thích web|title=Cuộc chiến không tiếng súng (Kỳ 1)|url=http://www.petrotimes.vn/news/vn/quoc-te/dau-tien-quyen-luc/cuoc-chien-khong-tieng-sung-(ky-1).html|publisher=Petrotimes|accessdate=2012-11-8}}</ref>
== Sinh vật ==
|