Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Intron”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa khoảng trắng trước dấu chấm, phẩy, replaced: . → . (2) using AWB |
n clean up, replaced: ( → (, ) → ) (2) using AWB |
||
Dòng 1:
[[Tập tin:Gene.png|nhỏ|phải|270px|Hình vẽ minh hoạ vị trí của các [[exon]] và intron trong một [[gen]]e.]]
'''Intron''' là những đoạn [[ADN|DNA]] bên trong một [[gen]]e nhưng không tham gia vào việc mã hoá [[protein]].Chúng thường xuất hiện trong các loài [[sinh vật nhân chuẩn|eukaryotic]] và không được tìm thấy trong các loài [[prokaryotic]] (Đôi lúc được tìm thấy trong các loài vi khuẩn cổ). Chúng xen giữa các đoạn DNA mã hóa cho sự tổng hợp chuỗi polypeptide được gọi là [[exon]] làm cho quá trình tổng hợp [[chuỗi polypeptide]] không thể diễn ra. Sau khi gene tiến hành phiên mã xong, những đoạn intron sẽ bị loại bỏ khỏi phân tử [[aRN thông tin|mRNA]] bằng cơ chế [[xử lý RNA]] (''RNA splicing'').Cơ chế này chỉ được thực hiện ở các tế bào Eukaryote (nhân thực).Các đoạn intron này sẽ tự xúc tác cho chính phản ứng cắt nó ra khỏi đoạn [[aRN thông tin|mRNA]] (những đoạn RNA có tính chất như vậy được gọi là [[ribozyme]]) từ đó làm cho các đoạn exon gắn lại với nhau và nhờ vậy quá trình dịch mã có thể diễn ra liên tục.Sau đó các mRNA được vận chuyển ra khỏi [[nhân tế bào]]. Số lượng và chiều dài của các intron khác nhau tuỳ từng [[loài]]. Ví dụ loài cá ''''Takifugu rubripes'' có rất ít intron. Trong khi đó động vật có vú và thực vật có hoa lại có rất nhiều intron, và thậm chí những intron có chiều dài lớn hơn so với các exon thuộc cùng gene. Về nguồn gốc thì chưa rõ ràng. Nhưng một phần được cho là từ những đoạn gene tranposon (gene nhảy), một phần là do sự xâm nhập của các virus cổ khi xâm nhập vào tế bào sinh dục hay phôi giai đoạn sớm thì chúng gắn đoạn gen của chúng vào đoạn gen của chúng ta và chưa biểu hiện ra cho đến khi có một tác động nào đó làm cho chúng biểu hiện và phát bệnh (
==Xem thêm==
|