Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngô Thế Vinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
n chỉnh lại cho đúng
Dòng 1:
'''Ngô Thế Vinh''' ([[chữ Hán]]: 吳世荣) hiệu '''Trúc Đường''', '''Khúc Giang''' và '''Dương Đình''' ([[1802]] - [[1856]]) quê xã Bái Dương, huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Trực, tỉnh [[Nam Định]].
 
Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống thi thư, là dòng dõi khai quốc công thần Chương Khánh Công [[Ngô Từ]] của nhà [[Nhà Tiềnnhà|Tiền ]], là em ruột của Ngô Đình Thái (soạn giả sách ''Nam Phong giải trào'').
 
Ông đỗ [[tiến sĩ]] năm [[Kỷ Sửu]] ([[Minh Mạng]] thứ 10, [[1829]]), làm quan đến chức [[lang trung]] [[bộ Lễ]]. Sau, khi làm giám khảo trườngtrườ ng [[thi Hương]] ở [[Hà Nội]], do duyệt quyển không kỹ, nên bị cách chức, ông về quê dạy học và phụng dưỡng mẹ già. Học trò nhiều người thành đạt. Vua [[Tự Đức]] thường sai Trung sứ đến nhà lấy thơ văn trước tác của ông để dâng vua xem. Sau vua lại gia ơn phục hồi học vị tiến sĩ.
 
Có sách chép, ông soạn tới 72 cuốn. Đồng biên soạn cuốn ''chuẩn định Hương Hội thi pháp''. Ông đề tựa cuốn ''Ức Trai di tập'' do [[Dương Bá Cung]] soạn. Tác phẩm chủ yếu là sách giáo khoa, có tập ''Dương Đình thi văn tập'' và ''Trúc Đường phú tập''. Ngoài ra, Ngô Thế Vinh còn biên soạn sách triết học như ''Trúc Đường chu dịch tùy bút'', sách sử học như ''Tống sử học'', sách về đo đạc như ''Khảo xích đạo bộ pháp''.
 
Qua những tác phẩm còn lại đến ngày nay, có thể nói ông là bậc tri thức uyên bác về nhiều lãnh vực.
Ông có để lại bản dịch bài thơ "Chức cẩm hồi văn" của Tô Huệ ([[Trung Quốc]]), (gồm 40 câu thơ thất ngôn = 280 chữ) ra thơ song thất lục bát (cũng 40 câu = 280 chữ) rất hay, đến nay chưa có bản dịch nào vượt lên trên được.
 
Trong số những hậu duệ của Ngô Thế Vinh có [[Ngô Lập Chi]], đậu [[cử nhân (định hướng)|cử nhân]] dưới triều [[nhà Nguyễn]], là dịch giả cuốn [[Phủ biên tạp lục]] của [[Lê Quý Đôn]].
 
== Tham khảo chính ==