Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hiệu ứng Kerr”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 10:
[[Hình:Waveplate.png|nhỏ|350px|Tế bào Kerr hoạt động như một [[bộ trễ sóng]].]]
Hiện tượng này hay được ứng dụng trong [[tế bào Kerr]], trong đó một mẩu vật liệu hình khối hộp đặt trong điện trường theo một phương và [[ánh sáng]] được chiếu theo phương vuông góc với điện trường. Khi đó tế bào Kerr hoạt động như một [[bộ trễ sóng]] [[waveplate]]. Nếu hệ thống đặt giữa hai [[kính lọc phân cực]] có phương phân cực vuông góc với nhau thì, khi không có điện trường, sẽ không có ánh sáng đi ra khỏi hệ thống. Khi điện trường với giá trị phù hợp được đặt vào, chiết suất theo phương điện trường khác với phương vuông góc với nó, làm cho ánh sáng phân cực theo phương điện trường lan truyền trong vật liệu với [[tốc độ]] khác với ánh sáng phân cực theo phương vuông góc với điện trường. Khi ló ra khỏi vật liệu, ánh sáng phân cực theo phương điện trường sẽ bị lệch pha với ánh sáng phân cực theo phương vuông góc, và [[trạng thái phân cực]] không còn như cũ, và do đó có thành phàn ánh sáng ló ra được khỏi hệ thống. Như vậy tế bào Kerr hoạt động như một công tắc bật tắt ánh sáng, điều khiển hoàn toàn bằng điện trường.
[[Hình:Kerr cell.svg|nhỏ|350px|Cấu trúc một tế bào Kerr, gồm hộp thủy tinh A đựng chất lónglỏng có hệ số Kerr cao B, nằm giữa các điện cực D và C]]
Một số [[chất lỏng]], như C<sub>7</sub>H<sub>7</sub>NO<sub>2</sub> hay C<sub>6</sub>H<sub>5</sub>NO<sub>2</sub>, có hệ số Kerr cao và có thể dùng trong các tế bào Kerr. Ưu điểm của hệ thống là tần số hoạt động cao, có thể bật tắt ánh sáng ở tần số lên tới 10&nbsp;[[giga|G]][[hertz|Hz]]. Nhược điểm của tế bào Kerr, so với [[tế bào Pockels]], là nó đòi hỏi điện trường rất lớn. Các vật liệu có hệ số Kerr cao thường là các [[chất độc]].