Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiền tệ Việt Nam thời Nguyễn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 87:
 
;Gia Long thông bảo
Năm 1802, [[Nguyễn Ánh]] lên ngôi, đặt niên hiệu là [[Gia Long]]. Sách ''Đại Nam thực lục chính biên'' cho biết vào năm 1803, NguyễnGia ÁnhLong cho đúc tiền ''Gia Long thông bảo'' bằng đồng. Khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều di chỉ tiền này. Tiền được đúc nhiều lần và không phải chỉ ở một nơi. Thứ lớn nhất thì có đường kính chừng 26 mm, thứ nhỏ nhất thì có đường kính chừng 20 mm. Mặt trước bốn chữ Gia Long thông bảo đọc chéo. Mặt sau để trơn.
 
Năm [[1813]], vua Gia Long cho đúc tiền Gia Long thông bảo thất phân. Theo Đại Nam thực lục chính biên thì tiền này bằng kẽm, song khảo cổ học phát hiện ra cả tiền mang tên này nhưng bằng đồng. Tiền kẽm Gia Long thông bảo thất phân và tiền đồng Gia Long thông bảo có thể đổi qua lại theo tỷ lệ 1,25:1. Gia Long thông bảo thất phân có đường kính trung bình 22 mm và trong thực tế có nhiều kích cỡ. Theo quy định thì tiền nặng bảy phân, nhưng không phải mọi mẫu vật phát hiện ra đều nặng đúng như thế. Mặt trước giống Gia Long thông bảo, nhưng mặt sau thì có hai chữ thất phân ở hai bên lỗ tiền.
 
Năm [[1814]], vua Gia Long lại cho đúc tiền Gia Long thông bảo lục phân nặng sáu phân. Thư tịch cho biết rõ hợp kim đúc tiền này có các thành phần sau đồng đỏ, kẽm, chì, thiếc (tỷ lệ là 500:415:65:20). Tiền được đúc nhiều lần và có đường kính xê xích khoảng 21,5 mm đến 22,5 mm. Mặt trước giống Gia Long thông bảo, nhưng mặt sau thì có hai chữ lục phân ở hai bên lỗ tiền.
 
;Minh Mạng thông bảo
Dòng 100:
Loạt thứ hai có kích thước lớn từ 22 đến 25 mm, được phát hành từ năm 1820. Nguyên liệu là hợp kim đồng, kẽm và thiếc.
 
Loạt thứ ba có đường kính khoảng 22 mm, nặng 9 phân, bằng hợp kim đồng kẽm, được phát hành từ năm [[1825]].
 
Loạt thứ tư có đường kính 25 mm, nặng 1 đồng cân, được phát hành từ năm 1827.
Dòng 121:
 
;Kiến Phúc thông bảo
Tiền mang niên hiệu của vua [[Kiến Phúc]] được đúc nhiều đợt từ năm [[1884]] và ở nhiều nơi vì vậy mỗi loạt khác nhau một chút. Nhìn chung, tiền có đường kính 23 mm. Mặt trước có bốn chữ Kiến Phúc thông bảo, mặt sau để trống. Thời này, quân Pháp đang đánh chiếm Việt Nam, triều chính cũng mất ổn định, ngôi vua thay đổi mấy lần nên sự quan tâm tới kinh tế không nhiều, tiền được đúc với số lượng ít. Khảo cổ học chỉ phát hiện được ít tiền này. Tiền đúc ra chỉ để khẳng định niên hiệu của vua mới chứ tác dụng cho lưu thông không nhiều vì số lượng quá ít.
 
;Hàm Nghi thông bảo
Dòng 141:
[[Tập tin:Khai Dinh Thong Bao.gif|nhỏ|phải|200px|Khải Định thông bảo]]
[[Tập tin:BaoDaiThongBao.gif|nhỏ|phải|200px|Bảo Đại thông bảo]]
Tiền này có bốn loạt đúc ở bốn nơi là [[Huế]], [[Hải Phòng]], [[Hà Nội]] và ở Pháp. Loại đúc ở Huế lưu thông ở Trung Kỳ, loại đúc ở Hà Nội và Hải Phòng thì để lưu thông ở [[Bắc Kỳ]]. Cả ba loạt này đều bằng kẽm. Riêng loạt đúc ở Pháp thì bằng đồng và chỉ để lưu thông ở Nam Kỳ.
 
;Bảo Đại thông bảo