Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phân bộ Nhím lông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Song song (thảo luận | đóng góp)
Song song (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 45:
}}
[[Hình:Wasserschwein Schaedelskelett-drawing.jpg|nhỏ|trái|250px|Hộp sọ của [[lợn nước]] chỉ ra [[ống dưới hốc mắt]] phình to, có mặt ở phần lớn các thành viên của phân bộ Hystricomorpha. Cấu trúc như thế được gọi là [[hệ cơ nhai xương gò má|dạng nhím]].]]
 
Thuật ngữ '''Hystricomorpha''' có nhiều định nghĩa trong suốt lịch sử tồn tại của nó. Theo nghĩa rộng nhất nó nói tới bất kỳ động vật gặm nhấm nào, ngoại trừ nhóm [[Siêu họ Chuột nhảy|chuột nhảy]] (''Dipodoidea'') với [[hệ cơ nhai xương gò má]] dạng nhím. Như thế, nó bao gồm cận bộ [[Hystricognathi]], [[Họ Chuột gundi|Ctenodactylidae]], [[Họ Sóc bay đuôi vảy|Anomaluridae]] và [[Thỏ nhảy|Pedetidae]]. Các kết quả nghiên cứu phân tử và hình thái học cho thấy việc gộp cả Anomaluridae và Pedetidae vào trong Hystricomorpha có thể là đáng nghi vấn. Dựa trên kết quả nghiên cứu của Carleton và Musser (2005)<ref name=Carleton2005>Carleton M. D. và G. G. Musser. 2005. Order Rodentia. Trang 745-752 trong Mammal Species of the World A Taxonomic and Geographic Reference (D. E. Wilson và D. M. Reeder chủ biên). Baltimore, Nhà in Đại học Johns Hopkins.</ref>, tại đây coi hai họ này như là thuộc về một phân bộ riêng, gọi là [[Phân bộ Sóc bay đuôi vảy|Anomaluromorpha]].
 
Định nghĩa hiện đại của Hystricomorpha, cũng được biết đến như là '''Entodacrya''' hay '''Ctenohystrica''', là giả thuyết phân loại hợp nhất [[Họ Chuột gundi|gundi]] với [[Cận bộ Hàm nhímNhím|động vật gặm nhấm hàm nhím]]<ref name=Carleton2005 />. Có một sự hỗ trợ [[hình thái học|hình thái]] đáng kể cũng như sự hỗ trợ [[phát sinh loài phân tử|phân tử]] mạnh cho mối quan hệ này. Nếu đúng, giả thuyết này làm cho quan điểm truyền thống về [[phân bộ Hàm sóc|Sciurognathi]] là bất hợp lệ do nó trở thành nhóm [[cận ngành]].
 
Động vật gặm nhấm dạng nhím, hay ít nhất là các thành viên của tiểu bộ [[Tiểu bộ Chuột lang|Caviomorpha]], đôi khi được coi là phi-gặm nhấm<ref>Graur D., Hide W. và Li W. 1991. Is the guinea-pig a rodent? Nature, 351: 649-652.</ref><ref>D'Erchia A., Gissi C., Pesole G., Saccone C. và Arnason U. 1996. The guinea-pig is not a rodent. Nature, 381 (6583): 597-600.</ref><ref>Reyes A., Pesole G. và Saccone C. 2000. Long-branch attraction phenomenon and the impact of among-site rate variation on rodent phylogeny. Gene, 259 (1-2): 177-87.</ref>. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu phân tử và di truyền đều xác nhận tính [[đơn ngành]] của động vật gặm nhấm<ref>Cao Y., Adachi J., Yano T. và Hasegawa M. 1994. Phylogenetic place of guinea pigs: No support of the rodent-polyphyly hypothesis from maximum-likelihood analyses of multiple protein sequences. Molecular Biology and Evolution, 11: 593-604.</ref><ref>Kuma K. và Miyata T. 1994. Mammalian phylogeny inferred from multiple protein data. Japanese Journal of Genetics, 69 (5): 555-66.</ref><ref>Sullivan J. và Swofford D.L. 1997. Are guinea pigs rodents? the importance of adequate models in molecular phylogenetics. Journal of Mammalian Evolution, 4: 77-86.</ref><ref>Robinson-Rechavi M., Ponger L. và Mouchiroud D. 2000. Nuclear gene LCAT supports rodent monophyly. Molecular Biology and Evolution, 17: 1410-1412.</ref><ref>Lin Y-H và ctv. 2002. Four new mitochondrial genomes and the increased stability of evolutionary trees of mammals from improved taxon sampling. Molecular Biology and Evolution, 19: 2060-2070.</ref><ref>Reyes A., Gissi C., Catzeflis F., Nevo E., Pesole G. và Saccone C. 2004. Congruent mammalian trees from mitochondrial and nuclear genes using Bayesian methods. Molecular Biology and Evolution, 21 (2): 397-403.</ref>. Hỗ trợ cho tính [[đa ngành]] của động vật gặm nhấm dường như là sản phẩm của [[hấp dẫn nhánh dài]]<ref>Bergsten J. 2005. A review of long-branch attraction. Cladistics, 21:163-193.</ref>.
 
Động vật gặm nhấm dạng nhím đã xuất hiện tại [[Nam Mỹ]] vào Tiền [[thế Oligocen|Oligocen]]<ref>Flynn J. J., Wyss A. R., Croft D. A. và Charrier R. 2003. The Tinguiririca Fauna, Chile: biochronology, paleoecology, biogeography, and a new earliest Oligocene South American Land Mammal ‘Age’. Palaeogeography, Palaeoclimatology, Palaeoecology, 195:229-259.</ref>, và di chuyển tới châu lục trước đây có [[thú có túi]] (cận lớp Marsupialia), [[động vật thiếu răng]] (siêu bộ Xenarthra) và [[thú móng guốc phương nam]] (nhóm Meridiungulata) như là các nhóm cư trú duy nhất trong [[động vật có vú]] không biết bay. Quan điểm tương tự về sự di cư sớm có thể là đúng đối với [[Bộ Linh trưởng|linh trưởng]] (bộ ''Primates''), cũng xuất hiện ở Nam Mỹ trước khi có [[Đại thiên di sinh vật châu Mỹ]] (trao đổi lớn liên Mỹ). Tất cả những điều này vẫn còn mâu thuẫn và các phát hiện khoa học mới về chủ đề này vẫn được công bố khá đều đặn.
==Đặc trưng giải phẫu==
Động vật gặm nhấm dạng nhím có [[lỗ dưới hốc mắt]] chạy từ phần trước của [[hốc mắt]] tới mặt ngoài của mõm, trở thành rất lớn. Thông qua nó, một phần của [[cơ nhai giữa]] đã phình to nhiều vượt ngang qua để bắt đầu trên mặt bên của mõm phía trước đối với [[cung gò má]]. Kiểu cấu trúc này tìm thấy ở các loài nhím lông (cả Tân lẫn Cựu thế giới), chuột lang, chuột nhảy và một lượng lớn các họ khác.
 
Cơ nhai giữa phình to, vượt ngang qua lỗ dưới hốc mắt phình to để khởi đầu trên mặt bên của mõm. [[Cơ nhai trên]] bắt nguồn từ rìa phía trước của xương gò má còn [[cơ nhai bên]] trải rộng trên phần lớn chiều dài của nó.
 
==Các họ==